Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Báo cáo Nợ công Việt Nam

Full and Final Report on Public Debt of Vietnam.



Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

Rủi ro không nằm ở các con số báo cáo



(TBKTSG) - LTS: Cuối tháng 7 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030. Theo chiến lược này, Việt Nam sẽ từng bước giảm dần nợ công, đến năm 2030 không quá 60% GDP, trong đó nợ Chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP. Để những mục tiêu này được khả thi, việc quản trị rủi ro về nợ công phải được chú ý đúng mức.

Theo báo cáo của Bộ trưởng Tài chính trước Quốc hội, tính đến cuối năm 2011, tổng nợ công/GDP của Việt Nam ước vào khoảng 54,6%, có giảm đôi chút so với năm 2010 chủ yếu do lạm phát cao của năm 2011 làm tăng giá trị hiện hành của GDP chứ không phải do vay nợ của Việt Nam giảm. Trong đó, nợ công nước ngoài vào khoảng 31,1% GDP. Các con số này hoàn toàn nằm trong ngưỡng an toàn của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).


Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng rủi ro của nợ công Việt Nam không nằm ở các con số báo cáo ở trên. Các nguy cơ đe dọa nợ công lại nằm ở khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bởi khu vực này luôn nhận được ngân sách “mềm” từ Chính phủ. Khi các DNNN lâm vào khó khăn, các khoản nợ trong nước của các doanh nghiệp này thường được Chính phủ hỗ trợ dưới các hình thức bổ sung vốn, khoanh nợ, giãn nợ, chuyển nợ, xóa nợ, trả nợ thay... Vinashin, Vinalines, tập đoàn Sông Đà, và hàng loạt công ty cơ khí xây dựng và công ty xi măng là những ví dụ điển hình.

Tất cả các hình thức ngân sách mềm này cuối cùng đều sẽ khiến chi tiêu ngân sách tăng. Và với việc ngân sách nhà nước liên tục bội chi thì để bù đắp phần chi tiêu cho khu vực DNNN, Chính phủ sẽ buộc phải phát hành trái phiếu và làm tăng nợ công. Do đó, những khoản nợ xấu của khu vực DNNN mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả mới là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam.

Chi tiết hơn, con số nợ công 54,6% vào thời điểm cuối năm 2011 chưa tính đến hơn 11,1% GDP nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh, mà các khoản nợ này chủ yếu là của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước.

Ngoài ra, theo đề án tái cơ cấu DNNN mới đây của Bộ Tài chính, tổng dư nợ tín dụng trong nước của các DNNN cũng lên tới 16,5% GDP. Nếu tính cả những con số này thì nợ công Việt Nam hiện đã ở trên 80% GDP, vượt xa mức khuyến cáo của các tổ chức quốc tế.

Có vẻ ngưỡng trần nợ công vào năm 2020 ở mức 65% GDP trong Chiến lược nợ quốc gia mới được phê duyệt gần đây bởi Chính phủ chưa tính đến những nguy cơ tiềm ẩn từ nợ của khu vực DNNN. Chúng tôi cho rằng, nợ của DNNN nên được coi là một phần không thể tách rời trong việc xây dựng chiến lược và phân tích về nợ công của Việt Nam, tuy nhiên Chiến lược nợ quốc gia chưa đưa ra được những chỉ tiêu cụ thể đối với nợ của khu vực này.

Bên cạnh mục tiêu về trần nợ công 65% GDP vào năm 2020, Chiến lược nợ quốc gia cũng đưa ra mục tiêu thâm hụt ngân sách hàng năm vào khoảng 4,5% GDP/năm giai đoạn 2012-2015 và 4% GDP/năm giai đoạn 2016-2020. Mục tiêu này cho thấy trong thời gian tới Việt Nam chưa có thay đổi gì nhiều về định hướng chi tiêu tài khóa. Chính phủ tiếp tục theo đuổi chính sách tài khóa mở rộng bất kể tăng trưởng của nền kinh tế ra sao.

Chính sách tài khóa chỉ đóng vai trò bình ổn kinh tế tốt khi chỉ tiêu thâm hụt ngân sách được gắn với chu kỳ kinh tế. Hay nói cách khác, chỉ tiêu thâm hụt ngân sách nên ở mức cao trong những năm nền kinh tế có tăng trưởng thấp/suy thoái nhằm kích thích tổng cầu, và nên ở mức thấp trong những năm nền kinh tế tăng trưởng cao nhằm tích lũy nguồn lực phòng ngừa cho những năm tăng trưởng thấp. Việc thiết lập chỉ tiêu thâm hụt ngân sách liên tục trong nhiều năm sẽ khiến cho chính sách tài khóa khó có thể đóng vai trò là “đệm” giảm sốc, mà thậm chí còn tích tụ rủi ro, cho nền kinh tế.

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Quản lý thật chặt việc vay nợ của DNNN

Báo Đầu tư

Theo quyết định mới đây của Thủ tướng Chính phủ, sẽ phải giảm dần nợ công để đến năm 2020, nợ công không quá 65% GDP. Muốn thực hiện mục tiêu này, theo TS. Phạm Thế Anh, quyền Viện trưởng Viện Chính sách công và quản lý (Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội), phải quản thật chặt việc vay nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

Cũng như các thành phần kinh tế khác, DNNN tự vay, tự trả, vì thế việc vay nợ của khối doanh nghiệp này không ảnh hưởng đến nợ công, thưa ông?

Theo Luật Quản lý nợ công, nợ công chỉ gồm nợ của Chính phủ, nợ của chính quyền địa phương và nợ do Chính phủ bảo lãnh. Tuy nhiên, Chính phủ thường phải đứng ra hỗ trợ khi DNNN làm ăn thua lỗ, không thể trả nợ đúng hạn - tức là ngân sách nhà nước, trong đó có tiền đóng thuế của người dân - phải chịu trách nhiệm về khoản tự vay, tự trả của DNNN. Đơn cử trường hợp của Vinashin hay một số doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Cơ khí xây dựng, Công ty cổ phần Xi măng Đồng Bành…

Hậu quả của việc vay nợ khá dễ dãi, đặc biệt là vay của ngân hàng thương mại, đã dẫn tới tình trạng DNNN đầu tư ngoài ngành tràn lan, đầu tư kém hiệu quả, làm mất vốn nhà nước. Chính vì vậy, trong đề tài nghiên cứu “Nợ công Việt Nam: quá khứ - hiện tại - và tương lai” mà Viện Chính sách công và quản lý đang thực hiện theo “đơn đặt hàng” của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, chúng tôi mạnh dạn kiến nghị phải quản lý thật chặt việc vay nợ của DNNN để kiểm soát được nợ công.

Nguồn vốn trong nước có hạn trong khi DNNN lại rất thiếu vốn để đầu tư. Theo ông, Chính phủ có nên bảo lãnh để DNNN huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế?

Theo số liệu của Bộ Tài chính, nợ nước ngoài mà Chính phủ bảo lãnh cho khu vực DNNN vào năm 2010 là 4.642,74 triệu USD, tương đương 14,3% tổng nợ nước ngoài của Việt Nam. Nếu so với năm 2006, nợ nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh cho DNNN mới ở mức 1.031,18 triệu USD (tương đương 6,6% tổng nợ nước ngoài của Việt Nam), có thể thấy trong vòng 5 năm, số nợ do Chính phủ bảo lãnh cho DNNN đã tăng chóng mặt.

Vấn đề đặt ra là khoản nợ này có được đầu tư hiệu quả không? Dự án đầu tư từ nguồn vay nợ có khả năng trả nợ không? Nếu không thì phải cân nhắc lại việc bảo lãnh, bởi nếu tiếp tục bảo lãnh sẽ khó có thể bảo đảm được mục tiêu đến năm 2020, nợ công không quá 65% GDP; dư nợ chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP như mục tiêu được đặt ra tại Quyết định 958/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế thực hiện đề tài nghiên cứu “Nợ công Việt Nam: quá khứ - hiện tại - và tương lai”, nợ công của Việt Nam hiện có an toàn?

Tính đến cuối năm 2010, nợ công tương đương 57,3% GDP; cuối năm 2011, nợ công đã giảm xuống 54,6% GDP, nhưng vẫn còn cao hơn rất nhiều so với mức 36% GDP vào năm 2001 và 44% GDP năm 2005.

Với tỷ lệ nợ công (so với GDP) như hiện nay, Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới nhận định, nợ công của Việt Nam dù đã vượt qua “ngưỡng tâm lý 50% GDP”, song vẫn trong giới hạn an toàn về trung hạn. Tuy nhiên, các phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng, các “ngưỡng an toàn” với nợ công Việt Nam khá nhạy cảm, chỉ cần thêm một vài dự án đầu tư phiêu lưu, kém hiệu quả hay những khoản nợ công chưa tính hết từ khối DNNN và từ các chính quyền địa phương, là các ngưỡng an toàn sẽ bị phá vỡ. Do vậy, chúng ta không thể chủ quan với các thống kê về nợ công hiện nay.

Các chuyên gia nghiên cứu đề tài này dự kiến sẽ khuyến nghị gì với Ủy ban Kinh tế và Quốc hội?

Thứ nhất, cần quan tâm hơn việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, cụ thể là phải quyết liệt giảm chi tiêu công để giảm việc vay nợ. Thứ hai, nâng cao kỷ luật ngân sách, nhất là liên quan đến chi tiêu công để giảm quy mô chi ngân sách. Thứ ba, minh bạch thông tin liên quan đến chi tiêu công và đầu tư công nhằm tăng cường giám sát của cộng đồng đối với hiệu quả đầu tư công và chi tiêu công, qua đó giúp phòng ngừa những rủi ro liên quan đến nợ công. Thứ tư, phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa nhằm hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô.

Cuối cùng, đẩy mạnh quá trình hợp tác quốc tế nhằm bảo đảm an ninh tài chính chung ở khu vực, vì trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, những khó khăn tài chính ở các quốc gia xung quanh sẽ nhanh chóng gây các tác động lan toả tới nền kinh tế Việt Nam và ngược lại.

Còn ý tưởng thành lập Ban Giám sát nợ công thì sao?

Song song với cơ quan quản lý thống nhất về nợ công của Chính phủ (Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính), chúng tôi đề xuất thành lập Ban Giám sát nợ công trực thuộc Ủy ban Kinh tế hoặc Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội. Việc thành lập Ban Giám sát nợ công cho phép theo dõi và giám sát nợ công một cách sát sao, khách quan và độc lập. Ban Giám sát nợ công được quyền truy cập mọi thông tin về nợ công và nợ nước ngoài của các bộ ngành, địa phương, DNNN, để từ đó có những tham mưu kịp thời cho Quốc hội.

Thứ Hai, 2 tháng 7, 2012

Xử lý nợ xấu?

Trên TBKTVN

Vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vẫn đang là tâm điểm của nền kinh tế  nhưng khi đề cập đến nợ xấu cần phải xác định thế nào là nợ xấu. Hiện tại các số liệu về nợ xấu vẫn chưa thực sự rõ ràng, mỗi người nói một kiểu… Do đó, trước khi xử lý cần phải xác định rõ bản chất của nợ xấu và đưa ra chính xác con số của nợ xấu là bao nhiêu, nợ quá hạn bao lâu được coi là nợ xấu cần phải xử lý… Để làm được điều này, có lẽ không có cách gì khác là phải học tập các nước trên thế giới đã từng lâm vào tình trạng giống Việt Nam hiện nay như: Hàn Quốc, Indonesxia…

Với thực tế nợ xấu của Việt Nam hiện nay, trước tiên cần phải thành lập một cơ quan, hoặc có thể là công ty… chuyên trách trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Hiện tại, tổng dư nợ tín dụng trong hệ thống ngân hàng vào khoảng 2,7 triệu tỷ đồng, để xác định chính xác nợ xấu là bao nhiêu cần có sự phân biệt rõ ràng giữa các khoản nợ xem trong đó có bao nhiêu % nợ thuộc nhóm 1, nhóm 2, nhóm 3, bao nhiêu % còn lại thuộc nhóm 4 và nhóm 5. Để phân loại nợ chính xác nên phân theo nợ quá hạn và phân nợ theo mức độ nghiêm trọng của từng khoản nợ. Bên cạnh đó, cũng cần phải xem khoản nợ xấu đó có tài sản thế chấp hay không, nếu có tài sản thế chấp thì việc xử lý sẽ đơn giản hơn. Tuy nhiên, với các khoản nợ có tài sản thế chấp thì cần thực hiện bước nữa là định giá các tài sản thế chấp đó để xác định xem giá trị của tài sản đó còn bao nhiêu % so với khoản nợ đó từ đó mới đưa ra phương hướng xử lý hiệu quả nhất.

Sau khi phân loại nợ xấu theo các tiêu chí khác nhau, bước tiếp theo cần phân biệt là doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chiếm bao nhiêu %, doanh nghiệp tư nhân chiếm bao nhiêu % trong tổng nợ xấu hiện nay. Cũng cần xây dựng các tiêu chí phân loại quy mô của các khoản nợ xấu để có hình thức xử lý phù hợp. Đối với DNNN, dĩ nhiên việc xử lý nợ xấu sẽ dễ dàng hơn, vì đây dù sao cũng là tài sản của Nhà nước. Do đó, Bộ Tài chính có thể nhanh chóng chủ động xử lý các khoản nợ xấu này. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân, bài toán xử lý nợ xấu sẽ phải khác hơn rất nhiều so với DNNN. Tuy nhiên, bất kể là DNNN hay tư nhân, việc xử lý nợ xấu phải đảm bảo minh bạch thông tin và không để các nhóm lợi ích chi phối.

Thời gian qua, chúng ta đang nói nhiều đến đề xuất của NHNN về việc thành lập công ty mua bán nợ xấu, có tổng vốn ban đầu khoảng 100.000 tỷ đồng. Tôi hoàn toàn đồng tình với chủ trương thành lập một công ty mua bán nợ xấu như đề xuất của NHNN nhưng câu hỏi đặt ra là: tiền ở đâu, giám sát như thế nào, thực hiện ra làm sao… NHNN không thể bỏ 100.000 tỷ đồng ra để giải quyết nợ xấu mà không giải trình rõ nguồn tiền đó lấy từ đâu. Bởi nguồn thu của NHNN chủ yếu là từ dự trữ bắt buộc và kinh doanh tiền tệ và nguồn thu này cần dùng để điều tiết thị trường. Chúng ta cần tuyệt đối tránh in tiền để cứu nợ xấu. Bởi vì in tiền như thế thì đang san sẻ gánh nặng nợ cho người dân. Nếu xử lý không tốt mà khoản tiền này bị mất thì tự nhiên người dân phải gánh chịu toàn bộ những khoản nợ xấu đó. Chủ trương thì là đúng nhưng bước đi cụ thể như thế nào để hiệu quả cao nhất là điều cần minh bạch. Nếu chỉ trông chờ vào nguồn lực trong nước để giải quyết bài toàn nợ xấu hiện nay là chậm chạp khó khả thi.

Hơn nữa, khi nợ xấu của hệ thống ngân hàng mà chỉ có mình NHNN tham gia xử lý tôi e rằng thông tin sẽ không được minh bạch và quá trình định giá các khoản nợ xấu sẽ không được chính xác. Bên cạnh đó, rất có thể sẽ xảy ra tình trạng chỉ cứu các doanh nghiệp nhà nước, còn doanh nghiệp tư nhân thì việc giải cứu sẽ không được chú trọng. Do đó, khi triển khai mua nợ xấu cần cần có sự bình đẳng giữa DNNN và các doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời kèm theo đó là cổ phần hoá hoặc bán đứt DNNN cho các tổ chức tư nhân trong nước hoặc nước ngoài. Trong quá trình xử lý nợ xấu cũng cần phải chấp nhận thực tế là doanh nghiệp nào quá xấu và không nằm trong lĩnh vực nhạy cảm thì cần có cơ chế cho họ thực hiện phá sản. Tuy nhiên, với bối cảnh kinh tế vĩ mô hiện nay, không nên để xảy ra đổ vỡ hệ thống, vì tác động lan truyền của nó trong nền kinh tế là rất lớn, đặc biệt là các tổ chức tín dụng.

Trong trường hợp công ty mua bán nợ xấu được thành lập theo đề xuất của NHNN thì theo tôi, NHNN chỉ nên giữa vai trò cung cấp thông tin, giám sát và phối hợp hành động giữa các bên, chứ NHNN không thể là người cung cấp nguồn lực tài chính duy nhất để xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Do đó, NHNN chỉ là một thành viên trong uỷ ban hay trong công ty mua bán nợ xấu này. Nguồn lực xử lý nợ xấu có thể huy động ở nhiều kênh khác nhau như: từ Bộ Tài chính, các tổ chức kinh tế tài chính khác trong nước, đặc biệt cần phải chấp nhận nguồn lực từ nước ngoài tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu hiện nay. Thực chất, với nguồn vốn từ Bộ Tài chính thì cũng sẽ gặp khó khăn, vì thâm hụt ngân sách vẫn đang trong tình trạng triền miên từ năm này qua năm khác, nếu bỏ tiền ra xử lý nợ xấu, thì tiền đó bản chất cũng là đi vay nợ, nếu dùng nợ để mua lại nợ thì đây là bài toán rất rủi ro. Trong khi đó, các tổ chức tài chính khác trong nước hiện nay cũng đang gặp khó khăn nên nguồn lực cũng sẽ không có nhiều. Vì vậy, để giải quyết nhanh và dứt điểm bài toán nợ xấu cần chấp nhận có sự tham gia của các tổ chức nước ngoài, nếu các nhà đầu tư nước ngoài sẵn sàng tham gia thì đây là điều tốt cho nền kinh tế. Theo tôi, những tư tưởng trông chờ vào các tổ chức trong nước xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng hiện nay là tư tưởng cục bộ, có thể những tư tưởng này bị chi phối bởi các nhóm lợi ích trong nước bằng cách này hay cách khác để làm sao nợ xấu được xử lý theo hướng có lợi cho họ.

Việc xử lý nợ xấu của các DNNN nên hạn chế sử dụng nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước. Chúng ta nên đẩy nhanh quá trình mua lại nợ xấu của các DNNN thông việc bán rẻ hoặc ưu đãi chính sách, ví dụ như miễn giảm thuế trong một thời gian nhất định, cho tổ chức mua lại các doanh nghiệp này.

Để kêu gọi được nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân và nước ngoài tham gia vào quá trình mua bán nợ xấu theo tôi cần phải công khai danh sách các doanh nghiệp và các khoản nợ xấu cần được xử lý. Việc xử lý nợ xấu hiện nay vẫn chỉ giới hạn trong phạm vi của NHNN do vậy các tổ chức tư nhân và nước ngoài nếu có quan tâm cũng chưa thể tiếp cận được thông tin. Nếu chỉ NHNN đứng ra xử lý với nội bộ ngân hàng, rất có thể sẽ xảy ra trường hợp “thiên vị” giữa doanh nghiệp này với doanh nghiệp kia. Điều này có thể đưa đến kết quả là khoản nợ xấu của một doanh nghiệp nào đó có thể được định giá cao hơn so với giá trị thật của nó. Vì vậy, để tránh những tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình xử lý nợ xấu thì khi thành lập công ty mua bán nợ xấu phải có đầy đủ các thành phần khác nhau như: bộ phận pháp lý, có cơ quan kiểm toán và định giá độc lập để định giá khoản nợ xấu hay tài sản thế chấp của khoản nợ xấu đó, có các cố vấn kinh tế có kinh nghiệm, có đại diện của Bộ Tài chính, có những bộ phận giám sát độc lập từ bên ngoài,… khi đó việc xử lý nợ xấu sẽ nhanh và minh bạch hơn so với hiện nay.

Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012

Chính sách tiền tệ 6/2012


Trên CafeF

Mỗi tháng bơm ra 50 ngàn tỷ rất dễ gây lạm phát

Một loạt chính sách tiền tệ mới được ban hành. Thị trường đang kỳ vọng những biến chuyển từ những quyết sách mới. Phóng viên đã có cuộc phỏng vấn với ông Phạm Thế Anh về những ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tới thị trường trong thời gian tới.

NHNN đã có quyết định hạ lãi suất 2 điểm phần trăm nhưng cho phép thỏa thuận lãi suất kỳ hạn trên 12 tháng. Là chuyên gia ông đánh giá thế nào về mức giảm cũng như quyết định cho thỏa thuận lãi suất của NHNN?

Trong ngắn hạn, lãi suất được quyết định bởi 2 yếu tố là lạm phát và thanh khoản. Yếu tố lạm phát lại gồm 2 thành phần là lạm phát hiện tại và lạm phát kỳ vọng. Hiện tại, lạm phát so với cùng kì năm trước (YoY) đến cuối tháng 5 chỉ còn 8,34%; còn lạm phát kỳ vọng trong những tháng tới thậm chí còn thấp hơn chỉ khoảng 6-7%.

Trong khi đó, thanh khoản của hệ thống ngân hàng đã được cải thiện mạnh nhờ việc NHNN đã bơm ra thị trường xấp xỉ 180 ngàn tỷ thông qua mua ngoại tệ và mới chỉ hút về một phần thông qua tín phiếu và thị trường mở. Như vậy cả lạm phát và thanh khoản đều ủng hộ cho quyết định hạ trần lãi suất.

Với lạm phát thực tế lẫn lạm phát kì vọng đang giảm mạnh hiện nay việc lựa chọn một mức trần lãi suất nào đó để áp với các khoản tiền gửi hạn dài là rủi ro cho cả ngân hàng lẫn người gửi tiền. Ngân hàng sẽ chịu thiệt nếu như lạm phát cuối năm tiếp tục giảm, ngược lại người gửi tiền sẽ chịu rủi ro nếu như lạm phát cuối năm tăng mạnh trở lại. Các ngân hàng và người dân lúc đó sẽ chỉ thực hiện các khoản tiền gửi/huy động kì hạn ngắn.

Do vậy, nếu còn trần lãi suất dài hạn thì nó sẽ không giúp làm tăng các khoản tiền gửi/huy động dài hạn – một yếu tố quan trọng giúp tạo sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Bằng cách gỡ bỏ trần lãi suất dài hạn, NHNN đang giảm bớt rủi ro chính sách cho chính mình. Ngoài ra, đây cũng là một bước đi cần thiết để gỡ bỏ dần biện pháp hành chính vào thị trường.  

Phó Thống đốc cũng cho biết lãi suất sẽ ổn định ở 9%/năm từ bây giờ đến hết năm. Ông có chia sẻ gì về điều này?

Theo tôi thông điệp của NHNN nhằm kích thích tâm lý vay vốn của các doanh nghiệp. Hiện nay, bên cạnh các doanh nghiệp không đủ điều kiện tiếp cận thì còn có nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện nhưng chưa sẵn sàng tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng thương mại do họ thấy lãi suất đang có xu hướng hạ nên còn có tâm lý chờ đợi lãi suất giảm tiếp. Nay NHNN phát đi tín hiệu lãi suất sẽ không giảm tiếp từ giờ đến cuối năm, các doanh nghiệp có ý định vay vốn sẽ sẵn sàng tiếp cận nguồn vốn vay này hơn để sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên việc cam kết này cũng có rủi ro là nếu lạm phát tiếp tục giảm xuống thấp mà NHNN lại vẫn tiếp tục giữ lãi suất huy động ở mức hiện tại sẽ không hợp lý, nhưng nếu giảm lãi suất theo lạm phát thì lại trái với cam kết đã đưa ra. Điều đó có thể làm giảm độ tin cậy và hiệu quả của những công bố chính sách trong tương lai.  


Dù sao thì lãi suất huy động cũng đã giảm, theo ông điều này sẽ có tác động thế nào tới tỷ giá trong thời gian tới?

Có nhiều lý thuyết xác định tỉ giá hối đoái trong nền kinh tế. Một trong những lý thuyết đó là điều kiện ngang bằng lãi suất. Theo lý thuyết này thì lãi suất nội tệ sẽ xấp xỉ bằng với lãi suất ngoại tệ cộng với kì vọng mất giá của đồng nội tệ. Do vậy, khi lãi suất VNĐ hạ sẽ làm tăng sức hấp dẫn đối với ngoại tệ. Tuy nhiên phải thấy mức chênh lệch lãi suất vẫn khoảng 6-7% cùng với tuyên bố tỷ giá không tăng quá 3% đến cuối năm của NHNN thì giữ VND vẫn hấp dẫn hơn. Cùng với đó là kinh tế đang suy giảm, nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất lẫn hàng hóa xa xỉ giảm mạnh, dự trữ ngoại hối tăng đáng kể thì tỷ giá khó có biến động nhiều trong ngắn hạn.

Tôi cho rằng với dự trữ ngoại hối hiện tại, cộng với những ưu tiên chính sách kiểm soát lạm phát, thì trong khoảng 1 năm tới tỷ giá khó có thể biến động mạnh, còn sự ổn định trong dài hạn phụ thuộc vào điều kiện vĩ mô. Nếu thâm hụt ngân sách, lạm phát tiếp tục tăng cao, kinh tế vĩ mô không ổn định thì chắc chắn tỷ giá sẽ còn tăng.

Có thực tế là tính đến hết tháng 5 thì tổng phương tiện thanh toán tăng 4,47% nhưng tín dụng chưa có tăng trưởng. Điều này có phải là bất thường? 

Cung tiền tăng gần 5% trong khi tín dụng không tăng trưởng cho thấy tiền được bơm ra nhưng không đến được với doanh nghiệp. Điều này khá nguy hiểm. Vậy tiền đi đâu? Cung tiền tăng chủ yếu là NHNN mua vào ngoại tệ. Một phần tiền bơm ra NHNN đã hút về qua phát hành tín phiếu và đấu thầu thị trường mở.

Còn một lượng lớn tiền được các NHTM sử dụng để mua TPCP hoặc TP được CP bảo lãnh. Ước tính từ đầu năm lượng TPCP và TP được CP bảo lãnh phát hành đã đạt 80 ngàn tỷ và sẽ tiếp tục được phát hành tiếp trong nửa cuối năm.

Lượng tiền đó nếu ở lại trong NHTM sẽ tạo ra áp lực phải cho vay ra, buộc các ngân hàng hạ lãi suất để cạnh tranh. Đây là hiện trạng chi tiêu công lấn át đầu tư tư nhân xảy ra phổ biến ở các nước đang phát triển có thâm hụt ngân sách dai dẳng. Hiện tượng này làm chậm lại quá trình giảm lãi suất cho vay của nền kinh tế.  

Muốn đưa tiền cho doanh nghiệp thì phải tăng trưởng tín dụng. Nếu để tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 12% thì những tháng còn lại trung bình hệ thống ngân hàng phải bơm ra nền kinh tế khoảng 50 ngàn tỷ đồng. Ông có bình luận gì về con số này?

50 ngàn tỷ/ tháng là quá nhiều và các doanh nghiệp sẽ không thể hấp thụ được. Chính sách điều hành có độ trễ nên nếu bơm vốn ồ ạt thì một thời gian sau lạm phát sẽ trở lại. Chúng ta đã có kinh nghiệm từ gói kích cầu trước đây và tôi nghĩ rằng NHNN sẽ không thực hiện bơm tiền như vậy.

NHNN chỉ nên kiểm soát tăng trưởng cung tiền hằng năm còn tăng trưởng tín dụng thì nên để NHTM tự quyết. Thông thường thì tăng trưởng cung tiền hằng năm nên xấp xỉ bằng với tăng trưởng GDP (%) + lạm phát (%). Nếu tăng trưởng dự kiến là 5%, lạm phát kỳ vọng là 7% thì tăng trưởng cung tiền M2 không nên vượt quá xa 12%.

Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của ngân hàng thương mại cũng giống như chỉ tiêu về doanh thu của các doanh nghiệp. Mỗi ngân hàng tùy theo điều kiện cụ thể, có đáp ứng được các chỉ tiêu an toàn hay không, cung cầu tín dụng trên thị trường thế nào, sẽ tự quyết định mức tăng trưởng cho phù hợp.

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

Thâm hụt ngân sách và tác động của nó ở Việt Nam

Bài viết trong khuôn khổ Báo cáo Kinh tế năm 2012 của Uỷ ban Kinh tế Quốc hội. Xem chi tiết tại đây.

Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2012

Có nên hạ trần lãi suất?

On SGTT

Cùng với việc giá gas tăng mạnh trong thời gian gần đây thì việc tăng giá xăng 10% lần này sẽ có tác động rất xấu đối với giá cả trong nền kinh tế. Đặc biệt sự điều chỉnh này được diễn ra trong bối cảnh giá một loạt các mặt hàng thiết yếu khác cũng chuẩn bị có sự điều chỉnh tăng như dịch vụ y tế, điện, than… Trước tiên, sự gia tăng của giá xăng dầu sẽ trực tiếp làm tăng giá cả các nhóm hàng có sử dụng xăng dầu là yếu tố đầu vào trực tiếp như giao thông vận tải, vật liệu xây dựng, chất đốt… Sau đó, sẽ là tác động gián tiếp nhiều vòng lên các nhóm hàng hoá khác trong nền kinh tế. Việc điều chỉnh này là không thể tránh khỏi do sự chênh lệch không thể bù đắp giữa giá trong nước và giá quốc tế. Chỉ có điều các nhà làm chính sách đã lựa chọn cách điều chỉnh một lần, tạo ra cú sốc tăng hơn 10%, thay vì điều chỉnh dần dần trong một thời gian dài. Do vậy, tác động của sự điều chỉnh lần này sẽ là không nhỏ và ảnh hưởng tiêu cực tới mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức một con số trong năm nay của Chính phủ.

Quyết định ép giảm lãi suất ngay trong thời điểm này có thể là một sự mạo hiểm chính sách. Trong điều kiện tăng trưởng kinh tế thấp như hiện nay, đồng thời NHNN có khống chế tăng trưởng tín dụng/cung tiền ở mức hợp lý thì lạm phát do cầu kéo là hầu như không có khả năng xảy ra. Tuy nhiên, trong khi giá một loạt các mặt hàng thiết yếu đang được điều chỉnh tăng thì quyết định giảm lãi suất có thể làm tăng lạm phát “tâm lý” và do vậy, có thể làm tăng tác động gián tiếp của việc điều chỉnh giá xăng dầu lên các mặt hàng khác trong nền kinh tế.

Ngoài ra, quyết định ép hạ lãi suất có thể là không hiệu quả trên thị trường và không giúp hạ được lãi suất thực tế mà các doanh nghiệp đang phải trả. Tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ đang trên đà giảm nhưng vẫn ở mức cao hơn rất nhiều so với trần lãi suất huy động hiện nay, giá các mặt hàng thiết yếu điều chỉnh tăng mạnh và kỳ vọng lạm phát quay trở lại sẽ khiến cho hiệu quả của việc hạ trần lãi suất kém đi rất nhiều.

Gấp rút cơ cấu lại các khoản nợ xấu và các ngân hàng yếu kém mới là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của hệ thống tài chính hiện nay. Đó chính là cơ sở để hạ được lãi suất lâu dài và bền vững. Nếu các điều kiện thị trường đã sẵn sàng cho việc hạ lãi suất, chúng ta nên gỡ bỏ trần lãi suất và để cho thị trường tự làm điều đó chứ không nên dùng các biện pháp ép buộc.

Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

Thanh khoản, lãi suất và tái cấu trúc ngân hàng

Be back on SGTT

Bản chất của vấn đề thanh khoản là… nợ xấu

Trước tiên, cần làm rõ bản chất của vấn đề thanh khoản mà các ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng thương mại nhỏ, hiện đang gặp phải. Thực tế thời gian qua cho thấy nguyên nhân chủ yếu của nó không phải là sự chênh lệch tạm thời giữa kỳ hạn cho vay và kỳ hạn huy động trong hoạt động kinh doanh, mà thực chất là do nợ xấu không thu hồi được của các ngân hàng này. Do vậy, chúng ta cần gọi đúng tên của vấn đề đó là nợ xấu chứ không phải là thanh khoản. Các khoản nợ xấu này chủ yếu nằm ở lĩnh vực bất động sản và các lĩnh vực sản xuất có liên quan do sức cầu ở các thị trường này suy giảm mạnh trong hơn một năm qua. Theo tính toán của ngân hàng Nhà nước (NHNN) thì chỉ riêng tổng dư nợ bất động sản là xấp xỉ 200.000 tỉ đồng vào cuối năm 2011. Các khoản nợ này, nếu không thanh toán được, sẽ ngày càng phình to với tốc độ tăng bằng với mức lãi suất trên dưới 20%/năm.

Với các khoản cho vay thuộc lĩnh vực bất động sản, sản xuất vật liệu xây dựng và cả chứng khoán thì các ngân hàng thương mại hầu như chưa thu hồi được do các thị trường này sụt giảm mạnh cả về giá lẫn giao dịch. Mỗi khi các khoản huy động đáo hạn, các ngân hàng thương mại lại lâm vào tình trạng “đói” thanh khoản và sẵn sàng lao vào cuộc chạy đua lãi suất gây xáo trộn trên thị trường tiền tệ. Do vậy, vấn đề thanh khoản sẽ không thể được giải quyết triệt để bằng cách tạm thời bơm tiền qua thị trường mở hay qua cửa sổ tái cấp vốn/tái chiết khấu của NHNN. Hơn nữa, trong điều kiện lạm phát những tháng đầu năm còn cao, dư âm lạm phát của những năm trước chưa mờ nhạt, nếu bơm tiền lâu dài cứu thanh khoản có thể khiến nền kinh tế quay trở lại vòng xoáy lạm phát một lần nữa.

Giải pháp triệt để đối với vấn đề thanh khoản hiện nay phải là những biện pháp xử lý nợ xấu đi kèm với quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và thay đổi một số công cụ chính sách.

Giải pháp đơn giản thứ nhất là gỡ bỏ trần lãi suất huy động. Việc làm này sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể huy động được các khoản tiền gửi mới từ công chúng, chứ không chỉ là các khoản tiền gửi chạy từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Thực tế thời gian qua đã cho thấy không thể ép các ngân hàng thương mại tuân thủ trần lãi suất trong điều kiện họ thiếu thanh khoản. Với xu hướng giảm dần của lạm phát (so với cùng kỳ) và các ngân hàng thương mại đang tự nguyện cắt giảm lãi suất huy động như hiện nay, việc gỡ bỏ quy định trần này sẽ không gây xáo trộn gì nhiều trên thị trường tiền tệ.

Thứ hai, cùng với việc gỡ bỏ trần lãi suất thì việc phát triển và thực hiện các hợp đồng tín dụng với lãi suất điều chỉnh theo lạm phát nhằm đảm bảo lãi suất thực dương sẽ giúp làm tăng các hợp đồng tín dụng dài hạn, và từ đó giảm bớt căng thẳng thanh khoản. Tuy nhiên, vì sự thiếu hụt thanh khoản hiện nay là do nợ xấu và xảy ra trên toàn hệ thống, nên chỉ riêng những biện pháp này là không đủ. Giải pháp mấu chốt ở đây phải là đẩy nhanh quá trình thu hồi, cơ cấu lại, bán các khoản nợ quá hạn và giải chấp các tài sản đảm bảo cho các tổ chức tài chính có tiềm lực, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài nhằm huy động nguồn lực. Quá trình này có thể mất nhiều thời gian và trong quá trình thực hiện nhiều ngân hàng yếu có thể mất khả năng thanh toán. Để tránh sự đổ vỡ và tháo chạy dây chuyền thì quá trình mua/bán sáp nhập giữa các ngân hàng cần phải được thực hiện nhanh với sự giám sát, và nếu cần thiết là cả sự bảo trợ, của NHNN.