On the SGTT
LTS: Quốc hội khoá XIII đang họp kỳ họp đầu tiên trong bối cảnh vấn đề thâm hụt ngân sách, nợ công nhiều nước trở nên trầm trọng, khiến nhiều người giật mình, lo ngại nguy cơ của Việt Nam. Trong nước, từ trước, sự đổ bể của tập đoàn kinh tế nhà nước Vinashin đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến giám sát hoạt động kinh doanh đầu tư vốn nhà nước. Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có thẩm quyền tối cao đối với các vấn đề thuộc ngân sách. Thách thức đối với Quốc hội liên quan đến việc thực thi thẩm quyền này, dưới góc nhìn của các chuyên gia kinh tế: TS Phạm Thế Anh và TS Lê Hồng Giang.
Tỷ lệ nợ công hiện nay của Việt Nam có an toàn hay không, thưa ông?
Khi thâm hụt ngân sách và nợ công tăng cao, nó lại chính là nguyên nhân gây ra những bất ổn về lạm phát, lãi suất và tỷ giá. Ảnh minh hoạ. Ảnh: Lê Quang Nhật
TS Phạm Thế Anh: Thật khó có thể đưa ra một ngưỡng an toàn với tỷ lệ cụ thể về nợ công đối với Việt Nam. Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra ngưỡng an toàn này là rất khác nhau giữa các nước. Tỷ lệ nợ công/GDP của Nhật Bản lên tới khoảng 200% vẫn được cho là an toàn. Trong khi đó, một số nước Đông Âu và Trung Á đã rơi vào khủng hoảng nợ khi tỷ lệ nợ công/GDP tăng lên mức 80 – 90%. Thậm chí các nước thu nhập thấp và trung bình rơi vào khủng hoảng nợ khi tỷ lệ này thấp hơn nhiều.
Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam hiện nay vào khoảng 60%. Việc tranh luận xem tỷ lệ này là an toàn hay không đôi khi là không cần thiết. Quan trọng hơn là chúng ta phải nhìn vào xu hướng, những rủi ro tiềm ẩn và chất lượng sử dụng các khoản nợ công này.
Vậy đâu là những rủi ro của nợ công Việt Nam hiện nay?
Nguy cơ thứ nhất đó là xu hướng tăng nhanh của cả nợ trong nước lẫn nợ nước ngoài trong những năm gần đây. Dù ngưỡng an toàn là bao nhiêu đi chăng nữa thì với tốc độ tăng nhanh của nó, mỗi năm tăng thêm khoảng 5 – 7% GDP, thì nợ công sẽ nhanh chóng vượt ngưỡng an toàn.
Thứ hai, nợ công trong nước hiện nay chịu nhiều rủi ro về lãi suất. Trong khi đó, nợ công nước ngoài lại chịu rủi ro lớn về tỷ giá. Ngay cả trong trường hợp Việt Nam có khả năng duy trì cân bằng ngân sách cơ bản hàng năm, thì quy mô của các khoản nợ công cũng tăng nhanh với tốc độ bằng với lãi suất và tỷ lệ mất giá của đồng nội tệ.
Tuy nhiên, quan hệ này không phải là một chiều. Khi thâm hụt ngân sách và nợ công tăng cao, nó lại chính là nguyên nhân gây ra những bất ổn về lạm phát, lãi suất và tỷ giá. Có thể nói thâm hụt ngân sách cao và nợ công tăng nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô hiện nay của Việt Nam.
Cuối cùng, quan trọng hơn cả là những rủi ro liên quan đến chất lượng của việc sử dụng những khoản nợ công này. Nếu các khoản nợ công được sử dụng hiệu quả, đem lại tăng trưởng bền vững, cải thiện chất lượng cuộc sống thì nợ công nên được khuyến khích. Tuy nhiên, nếu việc sử dụng nợ công lại gây thất thoát, tham nhũng, lạm phát, và các bất ổn vĩ mô khác thì cần phải tuyệt đối hạn chế nó. Những rủi ro này theo tôi ở Việt Nam hiện nay là rất lớn thông qua hàng loạt các vụ việc bị phát hiện gần đây. Chất lượng sử dụng các khoản nợ công sẽ quyết định đến khả năng thanh toán nó và triển vọng trong tương lai của nền kinh tế.
Để giảm thiểu những rủi ro này, Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cần phải làm gì?
Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, có chức năng đưa ra những quyết định và giám sát việc thực thi tài khoá, cần phải tăng cường kỷ luật và giám sát việc thực hiện thu chi ngân sách.
Kỷ luật ngân sách ở đây thể hiện qua việc Quốc hội cần phải đưa ra các quy tắc tài khoá rõ ràng và yêu cầu Chính phủ thực hiện nghiêm ngặt. Quy tắc tài khoá ở đây có thể được thể hiện qua hàng loạt các chỉ tiêu về tỷ lệ nợ công/GDP, tỷ lệ thâm thụt ngân sách tối đa hàng năm, quy tắc về vay mượn (ví dụ như không được vay mượn từ ngân hàng Trung ương hay không được ứng trước ngân sách để chi tiêu, không được vay mượn quá bao nhiêu phần trăm so với tổng thu/chi,…). Các chỉ tiêu này nếu được thực hiện nghiêm sẽ giúp giảm bớt các rủi ro về nợ công.
Để thực hiện và giám sát tốt kỷ luật ngân sách, các thông tin về thu chi ngân sách cũng cần phải được chuẩn hoá và công khai theo thông lệ quốc tế. Việc hạch toán theo những cách riêng sẽ làm cho công tác giám sát và so sánh quốc tế gặp khó khăn. Hy Lạp và một số nước khác đã và đang phải trả giá đắt khi trước đây cố tình che giấu tình trạng nợ công của họ.
Tuy nhiên, việc giám sát có chặt chẽ thế nào đi nữa thì Quốc hội cũng không thể đủ nguồn lực và kỹ thuật để giám sát từng dự án, từng chương trình chi tiêu ngân sách. Về lâu dài, cách tốt nhất có lẽ là phải làm thế nào để không hoặc ít phải giám sát. Hiện nay chúng ta thấy rằng quy mô của chi tiêu chính phủ/GDP của Việt Nam thuộc diện cao nhất trong những nước ở khu vực, và thậm chí nó còn có xu hướng tăng so với những năm đầu đổi mới. Việc “rút lui” dần khỏi các hoạt động kinh tế của nhà nước, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân, sẽ giúp cho nguồn lực xã hội được sử dụng hiệu quả hơn, ngân sách cân bằng hơn và việc giám sát kỷ luật ngân sách được thực hiện tốt hơn.
Gánh nặng thuế của người dân đang cao so với các nước trong khu vực. Quốc hội khoá mới sẽ bàn về chuyện miễn giảm một số loại thuế cho một số đối tượng để chia sẻ gánh nặng lạm phát, đó là việc đáng hoan nghênh nhưng mang tính thời điểm. Về lâu dài, phải chăng, Quốc hội nên tính đến những chính sách căn cơ hơn để giảm gánh nặng này nhằm khoan sức dân, tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế?
Hiện nay mức thu ngân sách là khá cao. Số liệu so sánh quốc tế cho thấy tỷ lệ thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí và lệ phí của Việt Nam vào khoảng 25 – 26% GDP. Ngay cả khi trừ đi khoản thu từ dầu thô thì tỷ lệ này vẫn ở khoảng 21% GDP. Trong khi đó, các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia vào khoảng 15%, Philippines còn thấp hơn với khoảng trên dưới 13%, Indonesia là 12%, một số nước có tỷ lệ này rất thấp ví dụ như Ấn Độ chỉ khoảng 7 – 8%. Như vậy, bên cạnh “thuế lạm phát” hai con số, trung bình mỗi người dân Việt Nam chịu tỷ lệ thuế/thu nhập cao hơn gấp nhiều lần so với các nước trong khu vực.
Những biện pháp giảm thuế hiện nay chỉ mang tính tạm thời. Ngoài ra, nó còn đặt ra những dấu hỏi về tính công bằng giữa những đối tượng được cắt giảm và gây thêm thâm hụt ngân sách. Về lâu dài, các biện pháp căn cơ đối với nền kinh tế vẫn phải là cắt giảm chi tiêu công, cân đối ngân sách phải tránh dựa vào những khoản thu kém bền vững như bán tài sản hay tài nguyên thiên nhiên, đưa lạm phát của nền kinh tế xuống còn 4 – 5% như những nước trong khu vực, tăng cường tỷ lệ tuân thủ nghĩa vụ nộp ngân sách chứ không nên tận thu thuế bằng cách tăng cơ sở tính thuế hay tăng thuế suất để giảm thâm hụt ngân sách. Ngoài ra, hệ thống thuế của Việt Nam cũng cần phải có những cải cách nhất định để tránh hiện tượng thuế chồng thuế, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, và khuyến khích hành vi trốn thuế.
-----------
TS: Lê Hồng Giang: Giám sát việc đầu tư kinh doanh vốn nhà nước
Theo tôi hiểu Quốc hội hiện tại không giám sát trực tiếp phần tài sản của nhà nước trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp đã cổ phần hoá nhưng nhà nước vẫn giữ cổ phần.
Chức năng này được Quốc hội giao cho Chính phủ và Chính phủ đang chuyển dần cho tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Thực ra với một Quốc hội chưa hoàn toàn chuyên trách như hiện nay thì đây là phương thức duy nhất khả thi, vì việc giám sát trực tiếp 100% vượt ra ngoài khả năng của Quốc hội.
Tuy nhiên, Quốc hội nên sớm thông qua một bộ luật quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ và SCIC trong việc quản lý tài sản của các doanh nghiệp có cổ phần nhà nước này, và bản thân Quốc hội cũng nên tham gia sâu hơn vào quá trình giám sát SCIC.
Mặc dù SCIC là một doanh nghiệp (một thành viên) phải chịu sự chi phối của luật Doanh nghiệp, có hai vấn đề quan trọng vượt ra ngoài khuôn khổ của bộ luật này. Thứ nhất là thu nhập của SCIC, về bản chất là lợi nhuận (return) sinh ra từ đồng vốn của nhà nước, sẽ được sử dụng như thế nào? Bao nhiêu phần trăm phải trả về cho ngân sách nhà nước, bao nhiêu phần trăm SCIC có thể tái đầu tư, đầu tư đến giới hạn nào và vào đâu thì SCIC hay Chính phủ có thể tự quyết định thay vì phải xin ý kiến Quốc hội? Một nguyên tắc quan trọng ở đây là thu nhập của SCIC phải được coi là thu nhập của ngân sách chứ không phải là thu nhập của một doanh nghiệp nhà nước bình thường. Cũng cần phân biệt rõ thu nhập và lợi nhuận của SCIC, nếu đơn vị này thoái vốn từ một doanh nghiệp có cổ phần của nhà nước và thu về một khoản lớn hơn giá trị sổ sách mà trước đây nhà nước đã bàn giao, thì đó không nên tính là lợi nhuận do SCIC làm ra mà là thặng dư vốn của nhà nước.
Vấn đề thứ hai là cơ cấu và nhân sự của SCIC. Cho đến nay hội đồng quản trị của SCIC thiếu vắng các chuyên gia độc lập và đại diện của Quốc hội. Nên nhớ đồng vốn giao cho SCIC là tài sản chung của nhân dân, do đó Quốc hội với tư cách là đại diện cho dân phải có tiếng nói và trách nhiệm giám sát với những đồng vốn đó. Quốc hội có thể cử một đại biểu chuyên trách tham gia hội đồng quản trị của SCIC và/hoặc có thể đề cử một/vài chuyên gia độc lập đại diện cho mình bên cạnh đại diện của Chính phủ. Các chuyên gia độc lập ngoài việc đóng góp chuyên môn cao còn là đối trọng với các đại diện của Chính phủ và ban giám đốc SCIC. Quốc hội có thể yêu cầu các chuyên gia độc lập này điều trần và phản biện lại các đại diện của chính phủ trong các cuộc họp của Quốc hội. Đây là giải pháp tăng tính minh bạch và giảm bớt chi phí đại diện (agency cost) khi đồng vốn nhà nước được quản lý thông qua hai tầng đại diện. Trên nguyên tắc Quốc hội cần giữ quyền thuê cả các chuyên gia quản trị giỏi nước ngoài ngồi vào hội đồng quản trị của SCIC, chứ không nên giới hạn là người Việt Nam.
Vấn đề giám sát và làm luật thế nào, Quốc hội luôn có thể học hỏi từ các chuyên gia trong ngoài nước và quốc hội các nước khác. Nhưng điều kiện tiên quyết để quá trình giám sát và làm luật có thể hiệu quả là cần chuyển dịch dần Quốc hội thành một cơ quan chuyên trách và chuyên nghiệp. Cần coi đại biểu Quốc hội không chỉ là những đại diện cho nhân dân mà còn là những chuyên gia chuyên nghiệp trong lĩnh vực giám sát và làm luật. Một Quốc hội làm việc toàn thời gian là nhu cầu bức thiết cho giai đoạn phát triển hiện tại của Việt Nam.
Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011
Thứ Ba, 19 tháng 7, 2011
Kích cỡ có quan trọng?
From Mankiw's blog I found this striking paper.
Theo bài báo này thì kể từ giờ lý thuyết tăng trưởng kinh tế sẽ được bổ sung thêm một nhân tố quan trọng nữa đó chính là độ dài của pháo (penile length). Tatu Westling, nhà kinh tế của Đại học Helsinki, đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và penile length của các quốc gia trong giai đoạn 1960 và 1985. Mô hình của ông được xây dựng dựa trên mô hình tăng trưởng Solow và sử dụng bộ số liệu gồm 121 nước như trong bài báo của Mankiw-Romer-Weil (1992). Kết quả nghiên cứu cho thấy penile length có vai trò quan trọng đến quá trình phát triển của các quốc gia. Một số kết luận quan trọng của bài nghiên cứu bao gồm:
1. Penile length có mối quan hệ hình chữ U ngược với mức GDP của năm 1985;
2. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1960-1985 có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với penile length, và nó có thể giải thích tới 20% sự biến động của GDP trong giai đoạn này;
3.Kích cỡ tối ưu (để có được GDP cao nhất) chỉ là khoảng 13,5cm! (Đây là lý do tại sao Mankiw lại thất vọng. Có thể tham khảo thêm ở đây để xem nước nào đang có độ dài tối ưu). Nếu như nó dài hơn 16cm thì quá trình sụt giảm kinh tế sẽ xảy ra;
4. Khi đưa biến phản ánh penile length vào mô hình ước lượng thì kết quả cho thấy tốc độ hội tụ thu nhập (nước càng nghèo thì có tốc độ tăng thu nhập càng cao) sẽ giảm và tác động tiêu cực của tăng dân số đối với tăng trưởng kinh tế cũng giảm.
Những kết quả này có nghĩa là nước nào có kích cỡ càng dài thì mức thu nhập của năm 1985 (năm cuối cùng trong mẫu nghiên cứu) sẽ càng lớn. Mối quan hệ này được duy trì cho tới khi nó đạt độ dài 13,5cm thì thu nhập sẽ đạt đỉnh. Nếu cứ tiếp tục dài quá 16cm thì lại gây hại cho phát triển kinh tế :D
Should these results be discussed in economic growth textbooks in the future?
Theo bài báo này thì kể từ giờ lý thuyết tăng trưởng kinh tế sẽ được bổ sung thêm một nhân tố quan trọng nữa đó chính là độ dài của pháo (penile length). Tatu Westling, nhà kinh tế của Đại học Helsinki, đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và penile length của các quốc gia trong giai đoạn 1960 và 1985. Mô hình của ông được xây dựng dựa trên mô hình tăng trưởng Solow và sử dụng bộ số liệu gồm 121 nước như trong bài báo của Mankiw-Romer-Weil (1992). Kết quả nghiên cứu cho thấy penile length có vai trò quan trọng đến quá trình phát triển của các quốc gia. Một số kết luận quan trọng của bài nghiên cứu bao gồm:
1. Penile length có mối quan hệ hình chữ U ngược với mức GDP của năm 1985;
2. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1960-1985 có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với penile length, và nó có thể giải thích tới 20% sự biến động của GDP trong giai đoạn này;
3.Kích cỡ tối ưu (để có được GDP cao nhất) chỉ là khoảng 13,5cm! (Đây là lý do tại sao Mankiw lại thất vọng. Có thể tham khảo thêm ở đây để xem nước nào đang có độ dài tối ưu). Nếu như nó dài hơn 16cm thì quá trình sụt giảm kinh tế sẽ xảy ra;
4. Khi đưa biến phản ánh penile length vào mô hình ước lượng thì kết quả cho thấy tốc độ hội tụ thu nhập (nước càng nghèo thì có tốc độ tăng thu nhập càng cao) sẽ giảm và tác động tiêu cực của tăng dân số đối với tăng trưởng kinh tế cũng giảm.
Những kết quả này có nghĩa là nước nào có kích cỡ càng dài thì mức thu nhập của năm 1985 (năm cuối cùng trong mẫu nghiên cứu) sẽ càng lớn. Mối quan hệ này được duy trì cho tới khi nó đạt độ dài 13,5cm thì thu nhập sẽ đạt đỉnh. Nếu cứ tiếp tục dài quá 16cm thì lại gây hại cho phát triển kinh tế :D
Should these results be discussed in economic growth textbooks in the future?
Thứ Bảy, 9 tháng 7, 2011
Who pays the highest tax burden?
Two months ago I was interviewed by a journalist about the current tax burden in Vietnam. However, it seemed that the interview failed to get permission to go public. In this case, blogsphere is the best place to express some critical views.
Here is the interview:
Journalist (J): Trong số các mục tiêu của việc cải cách chính sách thuế giai đoạn tới, có việc xây dựng và thực hiện chính sách huy động từ thuế, phí và lệ phí hợp lý, theo ông mức động viên trong thời gian qua đã được thực hiện như thế nào?
Me (M): Tôi nghĩ mức động viên là khá cao. Tại sao nói như vậy? Chúng ta hãy so sánh số liệu quốc tế, tỷ lệ động viên (thu ngân sách nhà nước) từ thuế, phí và lệ phí của Việt Nam vừa qua vào khoảng 25%-26% GDP, trong khi các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc và Ma-lay-xia vào khoảng 15%, Philippin còn thấp hơn với khoảng trên dưới 13%, In-đô-nê-xia là 12%, một số nước có tỷ lệ này rất thấp ví dụ như Ấn Độ chỉ khoảng 7%-8%. Có thể nói trung bình mỗi người dân Việt Nam chịu tỷ lệ thuế/thu nhập cao gấp từ 1,5 đến 3 lần so với các nước trong khu vực.
Nước ta vừa bước ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình (cận dưới), bên cạnh thuế thu nhập cá nhân còn nhiều khoản thuế khác đánh vào tiêu dùng, ví dụ như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng… Một vấn đề khác là lạm phát thường được ví như một loại “thuế” tàng hình ở ta rất cao, đối với các nước trong khu vực lạm phát ở mức 4%-5% đã được coi là cao thì ở ta lạm phát đang ở mức hai con số. Chống lạm phát và thực hiện chính sách huy động từ thuế, phí và lệ phí hợp lý hơn, chính là để khoan sức dân, góp phần thúc đẩy sản xuất và nâng cao đời sống người dân.
J: Nguồn thu ngân sách của nước ta có đóng góp quan trọng từ dầu thô, như vậy nếu loại trừ yếu tố dầu thô thì có thể tỷ lệ động viên không đến mức cao như số liệu ở trên?
M: Theo báo cáo của Bộ Tài Chính, ước thực hiện thu ngân sách từ thuế và phí năm 2009 và 2010 lần lượt là 23,7% và 24,9% GDP, trong đó thu từ dầu thô lần lượt chiếm khoảng 13,7% và 13,4% tổng thu ngân sách, hay tương đương với 3,6% GDP. Do vậy, tỉ lệ thu từ thuế và phí loại trừ thu từ dầu thô vẫn chiếm tới trên 21% GDP – một con số quá cao so với các nước trong khu vực.
Hình 6.3. So sánh quốc tế - tỷ lệ thu từ thuế và phí, 2000 – 2009 (% GDP)
Nguồn: ADB Indicator 2010
J: Trên thế giới nhiều nước có mức động viên rất cao, ví dụ một số nước Bắc Âu?
M: Họ cao nhưng mình không so sánh được, vì hệ thống an sinh xã hội của họ rất tốt, người thất nghiệp được đảm bảo cuộc sống, người về hưu có chế độ tốt, người bệnh không phải trả chi phí y tế, sinh viên không phải đóng học phí,… Chúng ta chỉ có thể so sánh với những nước đang phát triển, có thu nhập ở mức trung bình thấp, có hệ thống an sinh xã hội tương đồng với mình, cụ thể là nên so sánh với các nước trong khu vực.
J: Chính phủ đang nỗ lực để giảm thâm hụt ngân sách, như vậy đề cập đến việc giảm thuế trong bối cảnh hiện nay có thể chưa phù hợp?
M: Để giảm bội chi ngân sách, Chính phủ có thể tiến hành cắt giảm chi tiêu công, đầu tư công và/hoặc tăng thu ngân sách. Rõ ràng trong các việc đó thì cắt giảm chi tiêu công, đầu tư công sẽ dễ nhận được sự ủng hộ của công chúng. Hơn nữa, với thực trạng nguồn thu hiện nay thì dư địa để tăng thu là không nhiều. Trung bình trong 5 năm gần đây, 2/3 nguồn thu ngân sách nhà nước hàng năm đến từ ba loại thuế là thuế giá trị gia tăng (23%), thuế thu nhập doanh nghiệp (30%) và thuế quan (tariff) thu từ hoạt động xuất nhập khẩu (13%). Thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu đang tăng nhanh, cho thấy sự phụ thuộc của nguồn thu vào các hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên, theo lộ trình cam kết gia nhập WTO thì tariff là nguồn thu kém bền vững, vì đến thời điểm nhất định chúng ta phải giảm thuế để thực hiện cam kết hội nhập. Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào những mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng là điều cần thiết, tuy nhiên thực tế trong thâm hụt thương mại thì hàng tiêu dùng xa xỉ chiếm tỷ lệ không lớn, vấn đề nằm ở cơ cấu nền kinh tế với sự yếu kém của công nghiệp phụ trợ và việc không coi trọng thị trường hàng tiêu dùng trong nước. Thu từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, chuyển quyền sử dụng đất, cổ phần hóa,… là những nguồn thu hữu hạn. Tương tự, thu từ bán tài nguyên, nhất là dầu thô cũng hữu hạn. Hiện nay có chủ trương điều chỉnh giá xăng dầu theo thị trường, tuy nhiên cần lưu ý khi so sánh giá xăng dầu nước ta với một số nước khác là họ không có nguồn thu từ dầu thô (sở hữu toàn dân) còn chúng ta thì ngược lại.
Thuế thu theo luật định, do vậy việc tăng thu không có nghĩa là lạm thu mà phải tập trung vào chống thất thu, chống buôn lậu, chống trốn thuế. Cách tốt nhất là làm sao để tăng tỷ lệ tuân thủ nộp ngân sách, chứ không thể tăng cơ sở đánh thuế, tăng mức thuế suất. Con đường duy nhất để giảm thâm hụt ngân sách và tránh sự gia tăng nhanh của nợ công là cắt giảm chi tiêu công, đầu tư công một cách quyết liệt và với định hướng lâu dài.
J: Ông cho rằng nếu điều chỉnh giảm mức thuế suất chung một cách hợp lý hơn nữa đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, có thể vẫn không ảnh hưởng đến thu ngân sách?
M: Việc điều chỉnh giảm mức thuế suất chung theo lộ trình phù hợp, sẽ giúp thu hút đầu tư tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện nay trong khu vực FDI chúng ta thấy có những doanh nghiệp báo cáo lỗ nhưng cứ xin mở rộng đầu tư, đó là hiện tượng chuyển giá để trốn thuế. Thực tế thuế thu nhập doanh nghiệp của mình cao hơn một số nước trong khu vực, đây là một trong những lý do góp phần tạo nên hiện tượng chuyển giá. Ví dụ nếu thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước nào đó trong khu vực thấp hơn nước ta, doanh nghiệp FDI sẽ chuyển lợi nhuận sang nước đó để chịu thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn. Cho nên giảm thuế thu nhập doanh nghiệp chưa chắc đã làm giảm thu ngân sách. Chúng ta biết rằng FDI là khu vực rất lớn, nhưng tỷ lệ đóng góp vào ngân sách không cao, chỉ khoảng 10%.
J: Vậy theo ông tỷ lệ động viên từ thuế, phí và lệ phí ở mức bao nhiêu là hợp lý?
M: Trong bối cảnh nước nhà đang cần nhiều nguồn thu, nhiều vốn để phát triển cơ sở hạ tầng, thì nguồn thu có thể cao hơn đôi chút so với các nước trong khu vực, nhưng không nên cao quá và với điều kiện là phải đưa lạm phát xuống. Đặc biệt, ở Việt Nam, lương thực & thực phẩm luôn có giá cả gia tăng nhanh hơn những hàng hóa khác. Trong khi đó, chi tiêu cho lương thực & thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu của người nghèo. Điều này hàm ý, thuế lạm phát có thể làm giảm gánh nặng nợ công cho Chính phủ nhưng nó cũng đang khiến cho cuộc sống của người nghèo ngày càng khó khăn và khoảng cách giàu nghèo trong nền kinh tế ngày càng gia tăng.
Here is the interview:
Journalist (J): Trong số các mục tiêu của việc cải cách chính sách thuế giai đoạn tới, có việc xây dựng và thực hiện chính sách huy động từ thuế, phí và lệ phí hợp lý, theo ông mức động viên trong thời gian qua đã được thực hiện như thế nào?
Me (M): Tôi nghĩ mức động viên là khá cao. Tại sao nói như vậy? Chúng ta hãy so sánh số liệu quốc tế, tỷ lệ động viên (thu ngân sách nhà nước) từ thuế, phí và lệ phí của Việt Nam vừa qua vào khoảng 25%-26% GDP, trong khi các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc và Ma-lay-xia vào khoảng 15%, Philippin còn thấp hơn với khoảng trên dưới 13%, In-đô-nê-xia là 12%, một số nước có tỷ lệ này rất thấp ví dụ như Ấn Độ chỉ khoảng 7%-8%. Có thể nói trung bình mỗi người dân Việt Nam chịu tỷ lệ thuế/thu nhập cao gấp từ 1,5 đến 3 lần so với các nước trong khu vực.
Nước ta vừa bước ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình (cận dưới), bên cạnh thuế thu nhập cá nhân còn nhiều khoản thuế khác đánh vào tiêu dùng, ví dụ như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng… Một vấn đề khác là lạm phát thường được ví như một loại “thuế” tàng hình ở ta rất cao, đối với các nước trong khu vực lạm phát ở mức 4%-5% đã được coi là cao thì ở ta lạm phát đang ở mức hai con số. Chống lạm phát và thực hiện chính sách huy động từ thuế, phí và lệ phí hợp lý hơn, chính là để khoan sức dân, góp phần thúc đẩy sản xuất và nâng cao đời sống người dân.
J: Nguồn thu ngân sách của nước ta có đóng góp quan trọng từ dầu thô, như vậy nếu loại trừ yếu tố dầu thô thì có thể tỷ lệ động viên không đến mức cao như số liệu ở trên?
M: Theo báo cáo của Bộ Tài Chính, ước thực hiện thu ngân sách từ thuế và phí năm 2009 và 2010 lần lượt là 23,7% và 24,9% GDP, trong đó thu từ dầu thô lần lượt chiếm khoảng 13,7% và 13,4% tổng thu ngân sách, hay tương đương với 3,6% GDP. Do vậy, tỉ lệ thu từ thuế và phí loại trừ thu từ dầu thô vẫn chiếm tới trên 21% GDP – một con số quá cao so với các nước trong khu vực.
Hình 6.3. So sánh quốc tế - tỷ lệ thu từ thuế và phí, 2000 – 2009 (% GDP)
Nguồn: ADB Indicator 2010
J: Trên thế giới nhiều nước có mức động viên rất cao, ví dụ một số nước Bắc Âu?
M: Họ cao nhưng mình không so sánh được, vì hệ thống an sinh xã hội của họ rất tốt, người thất nghiệp được đảm bảo cuộc sống, người về hưu có chế độ tốt, người bệnh không phải trả chi phí y tế, sinh viên không phải đóng học phí,… Chúng ta chỉ có thể so sánh với những nước đang phát triển, có thu nhập ở mức trung bình thấp, có hệ thống an sinh xã hội tương đồng với mình, cụ thể là nên so sánh với các nước trong khu vực.
J: Chính phủ đang nỗ lực để giảm thâm hụt ngân sách, như vậy đề cập đến việc giảm thuế trong bối cảnh hiện nay có thể chưa phù hợp?
M: Để giảm bội chi ngân sách, Chính phủ có thể tiến hành cắt giảm chi tiêu công, đầu tư công và/hoặc tăng thu ngân sách. Rõ ràng trong các việc đó thì cắt giảm chi tiêu công, đầu tư công sẽ dễ nhận được sự ủng hộ của công chúng. Hơn nữa, với thực trạng nguồn thu hiện nay thì dư địa để tăng thu là không nhiều. Trung bình trong 5 năm gần đây, 2/3 nguồn thu ngân sách nhà nước hàng năm đến từ ba loại thuế là thuế giá trị gia tăng (23%), thuế thu nhập doanh nghiệp (30%) và thuế quan (tariff) thu từ hoạt động xuất nhập khẩu (13%). Thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu đang tăng nhanh, cho thấy sự phụ thuộc của nguồn thu vào các hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên, theo lộ trình cam kết gia nhập WTO thì tariff là nguồn thu kém bền vững, vì đến thời điểm nhất định chúng ta phải giảm thuế để thực hiện cam kết hội nhập. Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào những mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng là điều cần thiết, tuy nhiên thực tế trong thâm hụt thương mại thì hàng tiêu dùng xa xỉ chiếm tỷ lệ không lớn, vấn đề nằm ở cơ cấu nền kinh tế với sự yếu kém của công nghiệp phụ trợ và việc không coi trọng thị trường hàng tiêu dùng trong nước. Thu từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, chuyển quyền sử dụng đất, cổ phần hóa,… là những nguồn thu hữu hạn. Tương tự, thu từ bán tài nguyên, nhất là dầu thô cũng hữu hạn. Hiện nay có chủ trương điều chỉnh giá xăng dầu theo thị trường, tuy nhiên cần lưu ý khi so sánh giá xăng dầu nước ta với một số nước khác là họ không có nguồn thu từ dầu thô (sở hữu toàn dân) còn chúng ta thì ngược lại.
Thuế thu theo luật định, do vậy việc tăng thu không có nghĩa là lạm thu mà phải tập trung vào chống thất thu, chống buôn lậu, chống trốn thuế. Cách tốt nhất là làm sao để tăng tỷ lệ tuân thủ nộp ngân sách, chứ không thể tăng cơ sở đánh thuế, tăng mức thuế suất. Con đường duy nhất để giảm thâm hụt ngân sách và tránh sự gia tăng nhanh của nợ công là cắt giảm chi tiêu công, đầu tư công một cách quyết liệt và với định hướng lâu dài.
J: Ông cho rằng nếu điều chỉnh giảm mức thuế suất chung một cách hợp lý hơn nữa đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, có thể vẫn không ảnh hưởng đến thu ngân sách?
M: Việc điều chỉnh giảm mức thuế suất chung theo lộ trình phù hợp, sẽ giúp thu hút đầu tư tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện nay trong khu vực FDI chúng ta thấy có những doanh nghiệp báo cáo lỗ nhưng cứ xin mở rộng đầu tư, đó là hiện tượng chuyển giá để trốn thuế. Thực tế thuế thu nhập doanh nghiệp của mình cao hơn một số nước trong khu vực, đây là một trong những lý do góp phần tạo nên hiện tượng chuyển giá. Ví dụ nếu thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước nào đó trong khu vực thấp hơn nước ta, doanh nghiệp FDI sẽ chuyển lợi nhuận sang nước đó để chịu thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn. Cho nên giảm thuế thu nhập doanh nghiệp chưa chắc đã làm giảm thu ngân sách. Chúng ta biết rằng FDI là khu vực rất lớn, nhưng tỷ lệ đóng góp vào ngân sách không cao, chỉ khoảng 10%.
J: Vậy theo ông tỷ lệ động viên từ thuế, phí và lệ phí ở mức bao nhiêu là hợp lý?
M: Trong bối cảnh nước nhà đang cần nhiều nguồn thu, nhiều vốn để phát triển cơ sở hạ tầng, thì nguồn thu có thể cao hơn đôi chút so với các nước trong khu vực, nhưng không nên cao quá và với điều kiện là phải đưa lạm phát xuống. Đặc biệt, ở Việt Nam, lương thực & thực phẩm luôn có giá cả gia tăng nhanh hơn những hàng hóa khác. Trong khi đó, chi tiêu cho lương thực & thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu của người nghèo. Điều này hàm ý, thuế lạm phát có thể làm giảm gánh nặng nợ công cho Chính phủ nhưng nó cũng đang khiến cho cuộc sống của người nghèo ngày càng khó khăn và khoảng cách giàu nghèo trong nền kinh tế ngày càng gia tăng.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)