Thật khó có thể giải thích hay dự
đoán chu kì kinh tế Việt Nam khi chúng ta không có những số liệu quan trọng như
tồn kho, việc làm/thất nghiệp hoặc tiền lương. Ngay cả khi được công bố chính
thức thì nhiều số liệu lại bị méo mó, không phản ánh đúng tín hiệu do nhiều thị
trường bị kiểm soát bởi chính phủ, hoặc do chúng được đưa ra bởi các phương
pháp thống kê ít tin cậy. Do vậy, các số liệu thống kê của Việt Nam chủ yếu là ở
dạng ước tính/ước đoán hơn là ghi chép đúng thực tế.
Hình 1: Chu kì kinh
tế Việt Nam 1996–2003
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của IMF
Hình 1 cho thấy rằng, kể từ khi
tiến hành đổi mới vào đầu những năm 1990 tới nay kinh tế Việt Nam đã trải qua
hai giai đoạn suy thoái. Giai đoạn thứ nhất diễn ra trong hai năm 1998–1999 do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, gây sụt giảm cầu đầu tư lẫn xuất
khẩu từ các nước Đông Á. Giai đoạn thứ hai diễn ra kể từ năm 2008 tới nay, xảy ra sau cuộc Suy thoái lớn (Great Recession not Depression)
của kinh tế thế giới mà khởi nguồn là từ Mỹ sau đó lan rộng sang châu Âu và các nước
khác. Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn giữa hai thời kì suy thoái này ở Việt Nam.
Sự khác biệt đầu tiên đó là đợt suy thoái thứ nhất khiến tăng trưởng của Việt
Nam giảm mạnh hơn, nhưng thời gian diễn ra ngắn hơn, chỉ trong 2 năm 1998–1999.
Trong khi đó, cuộc suy thoái thứ hai mặc dù tăng trưởng giảm nhẹ hơn nhưng lại
kéo dài suốt từ năm 2008 đến nay. Xen giữa cuộc suy thoái thứ hai là đợt hồi phục
nhẹ vào năm 2009 khi Việt Nam triển khai gói kích cầu với quy mô ước tính lên tới
khoảng 9 tỉ USD (tuy nhiên được cho là không giải ngân hết), tương tương xấp xỉ
9% GDP của năm đó. Sự khác biệt thứ hai, có lẽ là quan trọng hơn, đó là trước
khi xảy ra cuộc suy thoái thứ hai Việt Nam trải qua một thời kì bùng nổ (boom) với
các chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng kéo dài. Trái lại, trước và sau khi
trải qua đợt suy thoái lần thứ nhất, nhiều cải cách kinh tế mang tinh thần trọng
cung (sẽ được liệt dưới đây) đã được thực hiện cho tới khi Việt Nam chính thức
ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007.
Lý giải phần nào cho sự sụt giảm
tăng trưởng mạnh hơn trong thời kì suy thoái thứ nhất là do chính phủ Việt Nam
thời kì đó không thực hiện bất kì gói kích cầu nào. Tư tưởng kinh tế của trường
phái Keynes có lẽ còn khá xa lạ ở Việt Nam thời kì đó. Những năm 1990, các môn
học kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô mới du nhập vào và bắt đầu được giảng dạy sơ
sài ở một số trường đại học thuộc khối ngành kinh tế. Việt Nam thời đó cũng
chưa có đội ngũ chuyên gia kinh tế đông đảo và có hại (harmful) như bây giờ. Lác
đác vài người mới tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế phát triển (Development
Economics) tại một số trường đại học ở Úc hoặc Anh, tuy nhiên họ còn chưa nổi
danh và chưa có tầm ảnh hưởng gì tới giới hoạch định chính sách. Trong khi đó,
các chuyên gia kinh tế hải ngoại lại chủ yếu đưa ra những lời khuyên về cải
cách kinh tế thay vì các chính sách bình ổn.
Cải cách kinh tế của Việt Nam bắt
đầu từ nhiệm kì của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh vào năm 1986. Tôi còn nhớ những
năm này, đài báo luôn tràn ngập chuyên mục “những việc cần làm ngay” hoặc “nói
và làm” của ông. Những cải cách trong thời kì này, và cả sau đó nữa, đã đóng
vai trò nền tảng quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong hai thập kỉ
tiếp theo. Trước tiên, hàng rào nội thương hay việc “ngăn sông cấm chợ” đã được
dỡ bỏ, chấm dứt thời kì mua bán trao đổi chui lủi của người dân diễn ra hàng thập
kỉ trước đó. Sau 30 năm ra đời và được thực hiện một cách lén lút, việc “khoán
hộ” giao ruộng đất từ các hợp tác xã về cho các hộ nông dân, đã được chính thức
thông qua bởi Nghị quyết 10 vào năm 1988. Hàng loạt các
doanh nghiệp nhà nước làm ăn yếu kém đã được giải thể hoặc sáp nhập nhằm nâng
cao hiệu quả của khu vực này. Lực lượng lao động được tăng lên đáng kể nhờ quá
trình giải ngũ sau khi các cuộc chiến tranh biên giới chấm dứt. Hàng loạt các bộ
luật được ra đời mang lại hiệu ứng tích cực cho sản xuất trong thời gian này
như: Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (1990); công nhận quyền sở hữu
tư nhân (Hiến pháp 1992); quy định chi tiết về quyền sở hữu tư nhân (Bộ luật
dân sự 1995); Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994); Luật doanh nghiệp nhà
nước (1995); Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi (1996); Luật thương mại (1997); và
Luật đất đai đầu tiên (1987) và sửa đổi (1993). Đồng thời, các hoạt động giao
lưu thương mại và đầu tư quốc tế cũng bắt đầu được thực hiện thông qua việc ký
hiệp định thương mại với EU (1992), bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ
(1995), gia nhập ASEAN (1995) và ra nhập APEC (1998).
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á
khiến tăng trưởng kinh tế suy giảm mạnh trong hai năm 1998–1999. Tuy nhiên, thời
kì này không có các gói kích cầu rõ rệt nào được đưa ra. Tỷ lệ chi ngân sách
nhà nước/GDP và tỷ lệ cung tiền M2/GDP, hai thước đo phản ánh sự mở rộng tài
khoá và tiền tệ, trong những năm này trung bình chỉ lần lượt vào khoảng 30% và
21%, tức là lần lượt chỉ bằng 1/4 và 2/3 các con số tương ứng trong giai đoạn
suy thoái gần đây. Việc thiếu các chính sách kích thích tổng cầu có lẽ là
nguyên nhân khiến cho sự sụt giảm tăng trưởng trong cuộc suy thoái 1998–1999 lớn
hơn so với cuộc suy thoái hiện nay. Nhưng thay vào đó, nhiều cải cách lớn tiếp
tục được thực hiện đã giúp kinh tế Việt Nam hồi phục nhanh hơn. Cụ thể, Luật
Doanh nghiệp (2000) được ban hành đã dỡ bỏ các rào cản thành lập doanh nghiệp,
đơn giản thủ tục và giảm chi phí gia nhập thị trường, và thiết lập môi trường
kinh doanh thuận lợi; tiến trình cổ phần hoá DNNN được đẩy mạnh; hiệp định
thương mại song phương với Mỹ (2001) được kí kết đã khuyến khích sáng tạo và
đem lại cơ hội cho hàng ngàn doanh nghiệp; sở giao dịch chứng khoán (2000) được
hình thành đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn và đầu tư của doanh
nghiệp; và hàng loạt các bộ luật thương mại, đầu tư, đất đai, v.v. đã được sửa
đổi và bổ sung trong quá trình chuẩn bị gia nhập WTO. Tất cả các chính sách này
đã góp phần giải phóng và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, thúc đẩy sản
xuất và tăng trưởng trong một thời gian dài.
Kể từ năm 2007 đến nay, chúng ta
hầu như không chứng kiến một cải cách kinh tế đáng kể nào như giai đoạn trước
đó. Môi trường kinh doanh thậm chí còn có dấu hiệu thụt lùi so với thời kì tiền
ra nhập WTO. WTO giống như một cô gái đẹp mà chàng trai Việt Nam muốn chinh phục.
Trong giai đoạn chuẩn bị, các bài tập thể hình và chế độ bồi bổ dinh dưỡng đã
được kiên trì thực hiện. Tuy nhiên, sau khi chiếm được nàng, việc sử dụng
viagra (cho đỡ tốn thời gian?) lại được ưu thích hơn. Các chính sách kích thích
tổng cầu thông qua mở rộng tài khoá và tiền tệ kéo dài đã khiến tỉ lệ chi ngân
sách nhà nước/GDP và cung tiền M2/GDP lần lượt lên tới trên 30% và 110% trung
bình trong giai đoạn 2007–2012.
Mặc dù không còn chịu ảnh hưởng bởi
sự thành công ở các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung như Liên Xô và các nước
Đông Âu trước đây, mục tiêu phát kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước đã khiến Việt Nam chú trọng vào
việc đẩy mạnh công nghiệp hoá dựa trên khu vực công và thông qua các chính sách
bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước. Trong giai đoạn 2005–2011, 13 tập đoàn
kinh tế nhà nước quy mô lớn đã lần lượt được thành lập. Sự kém hiệu quả của các
tập đoàn này cho tới nay không còn phải là câu hỏi gây tranh cãi. Tỷ giá được
giữ cố định đồng thời các chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng được thực thi
nhằm thúc đẩy đầu tư, và từ đó thúc đẩy tăng trưởng. Hậu quả là lạm phát xảy
ra, nội tệ lên giá thực và nhập khẩu tăng mạnh. Các ngành được kì vọng sẽ sản
xuất thay thế nhập khẩu cuối cùng lại trở thành những ngành sử dụng nhiều
nguyên vật liệu nhập khẩu nhất. Để chống lại lạm phát, chính phủ Việt Nam sử dụng
các biện pháp kiểm soát khống chế cá loại giá cả từ giá các dịch vụ công, lương
thực – thực phẩm,… cho tới lãi suất và tỉ giá. Các chính sách kiềm giá nông sản
đã gây khó khăn cho nông dân và không hỗ trợ được ngành này phát triển. Cuối
cùng, nâng lãi suất kết hợp với thắt chặt chi tiêu công là điều không thể tránh
khỏi trong nỗ lực giải quyết lạm phát, hạ thấp thâm hụt tài khoá và thâm hụt
vãng lai.
Những diễn biến trên rất giống với
những gì đã diễn ra ở các nước đang phát triển trên thế giới những năm 1950 và
1960. Thời kì này, các quốc gia bị rơi vào vòng xoáy mà một số nhà kinh tế gọi
là chu kì “stop–go.” Giai đoạn “go” là thời kì mà tỷ giá được giữ cố định, đồng
thời các chính sách tài khoá và tiền tệ được mở rộng nhằm thúc đẩy đầu tư và
tăng trưởng. Hậu qủa của các chính sách này là lạm phát cao đi kèm với thâm hụt
tài khoản vãng lai, thâm hụt ngân sách và tăng trưởng thấp. Chính phủ các nước
buộc phải trải qua giai đoạn “stop” bằng việc thực hiện các biện pháp thắt chặt
và phá giá tiền tệ. Sau giai đoạn “stop” này thì một giai đoạn “go” mới lại được
mở ra. Chu kì này cứ lặp đi lặp lại với giai đoạn “go” ngày càng rút ngắn và
tăng trưởng thấp hơn. Trong khi đó, giai đoạn “stop” lại ngày càng kéo dài và với
những hậu quả tiêu cực hơn.
Hình 2 cho thấy một điểm đáng chú
ý là giai đoạn 1996–2006 là những năm nền kinh tế có lạm phát thấp/trung bình kết
hợp với tăng trưởng cao. Ngược lại, giai đoạn 2007–2012 lại được đặc trưng bởi
lạm phát cao kết hợp với tăng trưởng thấp. Năm 2007 được coi như là năm bản lề
của sự thay đổi. Điều này hàm ý đường Phillips trở nên dốc hơn hay mối quan hệ
đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng trở nên khắc nghiệt hơn trong giai đoạn
2007–2012 so với giai đoạn 1996–2006. Nói cách khác, giờ đây để tăng thêm 1 điểm
phần trăm của tăng trưởng, Việt Nam cần chấp nhận tỷ lệ lạm phát tăng thêm nhiều
điểm phần trăm hơn so với thời kì tiền ra nhập WTO nếu chỉ dùng các chính sách kích thích tổng cầu.
Hình 2: Lạm phát và
Tăng trưởng 1996–2012
Hình 3: Chi ngân
sách nhà nước 1996–2012 (% GDP)
Hình 4: Tỷ lệ cung
tiền M2/GDP 1996–2012
Hình 5: Nhập khẩu
1996–2012 (% GDP)
Nguồn:
Tính toán của tác giả từ số liệu của IMF
(Còn tiếp)