Thứ Tư, 29 tháng 9, 2010

On Vneconomy

VNeconomy đưa tin về vấn đề hạ lãi suất.

Bản tin Tài chính VTV1 tối qua đưa tin Kho bạc Nhà nước có khoảng 57 ngàn tỉ đồng, vượt cả con số phát hành trái phiếu phát hành từ đầu năm, tiền gửi tại các ngân hàng thương mại (NHTM), chủ yếu là Agribank và BIDV.

Đây là một thông tin tốt cho khả năng giảm lãi suất sắp tới bởi nó cho thấy nhiều khả năng lượng trái phiếu phát hành thêm từ giờ đến cuối năm sẽ rất hạn chế.

Tuy nhiên nó lại một lần nữa khiến chúng ta đặt câu hỏi về khả năng lập kế hoạch những người liên quan. Lý do của việc tồn đọng này là do nhiều dự án chậm triển khai. Việc phát hành trái phiếu thời gian qua đã góp phần làm lãi suất khó giảm, tuy nhiên lượng tiền thu về chỉ để gửi tại các NHTM. Ước tính đến thời điểm này, số tiền lãi phải trả cho lượng trái phiếu phát hành (Với lãi suất hơn 10%/năm) từ đầu năm tới nay có thể lên tới khoảng 2500 tỉ đồng!

Thứ Ba, 28 tháng 9, 2010

Thâm hụt ngân sách (1)

Cafef đưa tin Bộ Kế hoạch & Đầu tư (MPI) vừa công bố số liệu ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm. Tại sao lại là MPI mà không phải là Bộ Tài chính (MoF), cơ quan có chức năng quản lý tổng hợp thu chi ngân sách? Anh N dạo này hơn hẳn anh G ở NHNN về khoản im hơi bặt tiếng và không nổ linh tinh như hồi năm 2008 nữa.

Theo bản tin này thì tổng thu NSNN ước đạt gần 361 ngàn tỉ đồng, trong khi tổng chi ước đạt 405,5 ngàn tỉ đồng. Nhìn chung các nguồn thu, trừ thu dầu thô (có lẽ do đầu năm các anh dự kiến giá dầu thế giới cao hơn mức hiện tại), đều tăng khá so với dự toán. Như vậy, thâm hụt ngân sách từ đầu năm tới nay là gần 45 ngàn tỉ đồng.

So sánh con số này với tổng giá trị phát hành trái phiếu từ đầu năm là hơn 51,5 ngàn tỉ đồng thì MoF còn khoảng 6,5 ngàn tỉ đồng trong kho nhờ phát hành trái phiếu, chưa tính khoản 1 tỉ USD vay từ thị trường quốc tế (đã chi cho Vinashin 300 triệu trả nợ). Tuy nhiên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài năm nay cũng vào khoảng 1,1 tỉ USD. Sau đại lễ Thăng Long liệu nguồn chi có giảm? Xem ra con đường giảm lãi suất không hề dễ dàng.

Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2010

Kịch bản nào cho lạm phát cuối năm

Ngày 24 tháng 9 vừa qua Tổng cục Thống kê (TCTK) chính thức công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 9 tăng 1,31% so với tháng 8. Thông tin này hoàn toàn không gây sốc cho thị trường do nó đã được rò rỉ ra ngoài từ trước đó rất lâu và được thể hiện thông qua các bài dự báo CPI tháng 9 trên các trang báo điện tử. Tuy nhiên con số 1,31% rõ ràng là đột biến so với mức tăng chỉ từ 0,06-0,27% của nhiều tháng trước và đang gây ra những lo ngại nhất định về vấn kiểm soát lạm phát của kinh tế Việt Nam trong năm 2010. Hãy thử xem xem xét các kịch bản khác nhau cho lạm phát những tháng cuối năm trong mối tương quan với mức lạm phát mục tiêu (8%) trong năm nay của chính phủ và đồng thời phân tích những phản ứng có thể có của các chính sách kinh tế vĩ mô liên quan.

Các kịch bản lạm phát cuối năm

Kể từ năm 2007 TCTK sử dụng thêm cách tính tốc độ tăng bình quân của CPI để phản ánh lạm phát trong năm. Con số lạm phát tính theo cách này chính là trung bình cộng của tốc độ tăng CPI mỗi tháng trong năm so với cùng kì năm trước. Gần đây, con số lạm phát tính theo cách này được sử dụng phổ biến nhất, ví dụ như các con số lạm phát được công bố 22,97% của năm 2008 và 6,88% của năm 2009 là tính theo cách này. Đồng thời, các nhà hoạch định chính sách cũng ngầm sử dụng cách tính này để xác định lạm phát mục tiêu cho mỗi năm. Số liệu từ TCTK cho thấy, tốc độ tăng CPI của tháng 9 năm nay tăng 8,92% so với cùng kì năm trước, trong khi tốc độ tăng bình quân của CPI chín tháng đầu năm so với cùng kì là 8,64%, cao hơn khá nhiều so với lạm phát mục tiêu 8% của chính phủ.





Điểm qua các nhóm hàng trong giỏ hàng tính CPI chúng ta thấy rằng nhóm hàng có thể gây ra sức ép lạm phát cao trong những tháng cuối năm đó là lương thực và xăng dầu. Hai nhóm hàng này có lẽ sẽ phụ thuộc nhiều vào diễn biến giá cả khó lường của thế giới trong thời gian tới. Để có được bức tranh về các khả năng có thể xảy ra, chúng ta thử xây dựng ba kịch bản lạm phát cho những tháng cuối năm dựa vào số liệu quá khứ từ năm 2002 đến 2009. Kịch bản tốt sẽ lấy những số liệu thấp nhất, kịch bản xấu sẽ lấy những số liệu cao nhất, còn kịch bản trung bình sẽ lấy con số trung bình cộng của các tháng tương ứng trong giai đoạn 2002-2009. Kết quả của các kịch bản được trình bày trong Bảng 2.





Kết quả tính toán cho thấy kịch bản tốt là kịch bản có CPI giảm liên tiếp trong ba tháng cuối năm, một khả năng hầu như không thể xảy ra, sẽ cho con số lạm phát trung bình cả năm là 8,14%. Kịch bản xấu với mức CPI tăng khá cao trong những tháng tiếp theo sẽ cho con số lạm phát trung bình cả năm là 9,08%. Và kịch bản trung bình, nhiều khả năng xảy ra nhất, sẽ cho con số lạm phát trung cả năm là 8.6%. Như vậy có thể thấy, dù theo kịch bản nào đi chăng nữa, thì mục tiêu kiểm soát lạm phát trung bình dưới 8% sẽ là không khả thi (Tuy nhiên, nhiều khả năng vào cuối năm chính phủ sẽ thông báo rằng con số mục tiêu 8% là mức tăng CPI của tháng 12 so với cùng kì năm ngoái!).

Phản ứng của chính sách tiền tệ

Những phân tích thống kê sâu hơn cũng cho thấy nhiều khả năng lạm phát trung bình của Việt Nam trong năm nay sẽ ở quanh mức 8,6-8,7% và vượt mức mục tiêu của chính phủ. Vậy Ngân hàng Nhà nước với công cụ chính sách tiền tệ trong tay sẽ phản ứng theo chiều hướng nào trong những tháng còn lại của năm? Cần lưu ý rằng thước đo lạm phát ở trên được gọi là thước đo lạm phát tổng thể (headline inflation). Nó là chỉ số phản ánh tổng mức lạm phát của một nền kinh tế và có thể bị ảnh hưởng bởi các nhóm hàng hóa có giá cả biến động bất thường như lương thực & thực phẩm và năng lượng. Sự biến động giá của của các nhóm hàng này phụ thuộc nhiều vào các yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của chính sách tiền tệ như thiên tai và sự biến động của giá xăng dầu thế giới. Vì lý do này, thước đo lạm phát tổng thể nhiều khi không phản ánh chính xác bức tranh về hiện trạng của nền kinh tế. Các cơ quan thống kê trên thế giới thường tính toán thêm thước đo lạm phát cơ bản (core inflation), loại trừ những thay đổi tạm thời của của giá lương thực & thực phẩm và năng lượng. Đây thường là chỉ số được ngân hàng trung ương các nước theo dõi để đưa ra những thay đổi chính sách tiền tệ thích hợp.

Quay trở lại diễn biến lạm phát trong tháng 9, chúng ta có thể thấy sự đột biến lớn nhất xảy ra ở nhóm hàng giáo dục (tăng 12,02%). Với tỉ trọng chiếm 5,75% trong giỏ hàng tính CPI, nhóm hàng này đã đóng góp khoảng 0,69% trong tổng mức gia tăng 1,31% của cả giỏ hàng tiêu dùng. Các nhóm hàng có đóng góp lớn khác lần lượt là hàng ăn & dịch vụ ăn uống (0,32%), nhà ở, điện nước, chất đốt & vật liệu xây dựng (0,11%), và giao thông (0,08%). Như vậy, nếu loại trừ sự đóng góp của hai nhóm hàng ăn & dịch vụ ăn uống và giao thông thì chỉ số lạm phát cơ bản của Việt Nam trong tháng 9 sẽ là 0,91%. Và nếu loại bỏ cả sự gia tăng bất thường, và gần như chỉ xảy ra một lần trong năm, của nhóm hàng giáo dục thì chỉ số lạm phát của các nhóm hàng khác trong nền kinh tế chỉ còn khoảng 0.22%!

Sự gia tăng đột biến của lạm phát tháng 9 rõ ràng là phần lớn đến từ sự gia tăng bất thường của nhóm hàng giáo dục và chưa khẳng định được đó có phải là xu thế gia tăng dài hạn của giá cả hay không. Do vậy, tôi cho rằng việc thắt chặt tiền tệ lúc này sẽ một biện pháp không hợp lý khi chính phủ Việt Nam đang nỗ lực cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên, mức lạm phát cao của tháng này sẽ làm hạn chế sự lựa chọn giải pháp của chính phủ đối với việc cắt giảm lãi suất.

Có hai phương án khả thi để cắt giảm lãi suất đó là NHNN nên mua lại trái phiếu chính phủ với kì hạn dài hoặc chính phủ phải hạn chế phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp. Việc phát hành trái phiếu chính phủ với số lượng lớn đã thu hút đáng kể dòng vốn trong nền kinh tế, làm giảm lượng vốn cung ứng trên thị trường, đẩy lãi suất lên cao, và do vậy lấn át đầu tư của khu vực tư nhân. Lạm phát cao bất thường trong tháng 9 sẽ hạn chế việc thực hiện phương án 1 bởi nó khiến cho mục tiêu kiểm soát lạm phát trở nên khó khăn hơn. Do vậy phương án hạn chế phát hành trái phiếu chính phủ cần được ưu tiên.



Quan sát diễn biến trên thị trường sơ cấp thời gian gần đây thì có lẽ chính phủ đang theo đuổi phương án 2. Lượng trái phiếu phát hành, cả qua hình thức đầu thầu và bảo lãnh phát hành, trên thị trường sơ cấp đã giảm rõ rệt. So với cao điểm hồi tháng 5 và 6, khi lượng trái phiếu chính phủ được phát hành với trị giá trên chục ngàn tỉ đồng mỗi tháng, thì đến tháng 8 và 9, lượng phát hành thành công chỉ còn 900 tỉ đồng. Tuy nhiên sức ép phát hành vẫn còn rất lớn khi tổng giá trị trái phiếu chính phủ đã phát hành thành công là 51.512 tỉ đồng, mới đạt hơn 51% kế hoạch trong tổng giá trị phát hành trong năm nay. Với việc tổng thu ngân sách ước tăng vượt kế hoạch, kế hoạch phát hành trái phiếu trên chắc sẽ được điều chỉnh. Tuy nhiên, về lâu dài việc cắt giảm lãi suất cần phải được hỗ trợ từ việc cắt giảm chi tiêu của chính phủ.

Thứ Hai, 30 tháng 8, 2010

Diễn Biến KT Việt Nam và Thế Giới tháng 8

KINH TẾ VIỆT NAM

Lạm phát tiếp tục ở mức thấp. Mặc dù giá cả có thể tăng trở lại vào cuối năm nhưng mục tiêu 8% là hoàn toàn có thể đạt được. Lạm phát có thể không phải là vấn đề gây rủi ro chính sách của năm nay nữa khi dòng tiền đang bị kiểm soát chặt.

Sản lượng công nghiệp tăng trưởng mạnh trong tháng 8 (15,2% yoy). Tổng kết 8 tháng đầu năm sản lượng công nghiệp tăng 13,8% yoy. Tuy nhiên, chỉ số tiêu thụ sản phẩm của ngành chỉ tăng 12%, trong khi đó chỉ số hàng tồn kho tăng khoảng 40% so với cùng kì.

Dự kiến chính phủ sẽ áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu trong thời gian tới đối với một số sản phẩm có mức tồn kho cao như nhựa, sắt thép, thức ăn gia súc,…

So với cùng kì năm ngoái nhập khẩu nhiều mặt hàng nguyên vật liệu đang có xu hướng giảm. Điều này làm giảm áp lực nhập siêu nhưng nó cũng cho thấy sản xuất trong nước có tín hiệu chậm lại trong thời gian tới.

Xuất khẩu đang có xu hướng giảm nhẹ kể từ tháng 5.

Việc phá giá tiền tệ gần đây giúp phần nào giảm khoảng cách giữa tỉ giá trên hai thị trường tuy nhiên nó có vẻ như chưa đủ lớn để loại bỏ việc mua tích trữ và kì vọng giảm giá VND, đặc biệt là trên thị trường tự do.

Những doanh nghiệp xuất khẩu sẽ là những người được lợi trong khi những doanh nghiệp nhập khẩu và những doanh nghiệp có khoản vay bằng ngoại tệ sẽ là những người chịu thiệt từ sự phá giá này. Tuy nhiên, tác động của việc phá giá đến khối lượng nhập khẩu, và do vậy là thâm hụt thương mại, sẽ là rất nhỏ do phần lớn hàng nhập khẩu của Việt Nam là các yếu tố đầu vào quan trọng.

Mặc dù cán cân thanh toán tổng thể có thể thặng dư khoảng 5-6 tỉ $ trong năm nay, nhưng từ giờ đến cuối năm VND có thể mất giá thêm 2-3% nữa khi (i) nhiều khoản vay bằng $ đến ngày đáo hạn; (ii) thâm hụt thương mại được kì vọng tăng cao vào cuối năm và; (iii) hoạt động găm giữ $ vẫn còn tồn tại.

Thanh khoản của hệ thống ngân hàng tốt hơn nhờ hoạt động bơm tiền (kì hạn ngắn) qua OMO của NHNN. Tuy nhiên lãi suất vẫn tiếp tục ở mức cao và khó giảm trong thời gian tới.

Rủi ro kinh tế lớn nhất hiện nay là vấn đề lãi suất. Đây là rào cản chính đối với sự hồi phục hoàn toàn của nền kinh tế. Trong tháng 8, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại tồn tại phổ biến ở mức từ 13,5-15,5%/năm đối với các khoản vay trung và dài hạn.

Nếu NHNN không có những phản ứng chính sách mạnh thì lãi suất sẽ rất khó giảm thêm do cầu về vốn trong nền kinh đang tăng mạnh trong khi nguồn cung bị hạn chế. Theo kế hoạch, chính phủ còn kế hoạch phát hành khoảng 55 ngàn tỉ đồng trái phiếu trong năm nay. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp cũng có kế hoạch tăng vốn điều lệ thông qua phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu. Đặc biệt, thông tư 13/2010/TT-NHNN, có hiệu lực từ ngày 1/10/2010, ban hành bởi NHNN sẽ kiểm soát một cách khắt khe hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Cụ thể, một trong những điều khoản quy định của thông tư này là tỉ lệ tổng lượng vốn cho vay/tổng nguồn huy động không được vượt quá 80%, tuy nhiên các khoản tiền gửi không kì hạn của các tổ chức kinh tế, trái phiếu kho bạc, bảo hiểm xã hội, và các tổ chức khác, ước tính vào khoảng 15-20%, không được tính vào tổng nguồn vốn huy động. Do vậy, trên thực tế thông tư này sẽ chỉ cho phép các ngân hàng thương mại cho vay khoảng 65% tổng nguồn vốn huy động.

Lãi suất cao đang cản trở các đầu tư cũng như tiêu dùng của khu vực tư nhân. Với khi phí vốn vay hiện tại, các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn kiếm được lợi nhuận từ việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Những con số thống kê cho chúng ta thấy rằng cầu nội địa đang khá thấp trong khi lượng hàng tồn kho đang tăng cao. Hơn nữa, lãi suất cao còn có thể tạo ra những rủi ro cho thị trường ngoại hối khi các doanh nghiệp tiếp tục lựa chọn các khoản vay bằng US$ nhằm tận dụng mức chênh lệch cao (khoảng 7-8%) giữa chi phí vốn vay bằng VND và US$. Khi các khoản vay này đáo hạn nó sẽ tạo ra sức ép giảm giá đối với VND.

GDP của quý 3 có thể tăng 6,6-6,8% yoy và mục tiêu tăng trưởng cả năm 6,5% có thể đạt được. Tuy nhiên nền kinh tế tăng trưởng chưa thực sự bền vững cho sự hồi phục hoàn toàn. Nhiều dấu hiệu rủi ro xuất hiện như tồn kho tăng cao, xuất khẩu và nhập khẩu nguyên vật liệu đang có xu hướng giảm nhẹ, lãi suất cao cản trở tổng cầu (đầu tư và tiêu dùng) từ khu vực tư nhân.

Nếu chính phủ đồng ý với những rủi ro vĩ mô này thì phản ứng hợp lý nhất có lẽ sẽ là yêu cầu NHNN, bên cạnh việc tiếp tục đáp ứng thanh khoản cho các ngân hàng thương mại thông qua OMO, cần thực hiện việc mua trái phiếu với kì hạn dài hơn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn với chi phí hợp lý cho nền kinh tế. Nếu không thực hiện điều này, lãi suất sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao và sự hồi phục hoàn toàn sẽ khó có thể đạt được trong thời gian tới.

KINH TẾ THẾ GIỚI

Tăng trưởng kinh tế Mĩ trong 1,6 % mới được điều chỉnh giảm xuống còn 1.6% so với con số ước tính ban đầu 2,4%. Con số tương ứng của quý 1 là 3,7%. Như vậy tăng trưởng kinh tế Mĩ đang có xu hướng chậm lại (Đây là các con số được annualized).

Lý do điều chỉnh giảm chủ yếu là do không tính hết lượng nhập khẩu tăng đột biến trong quý 2 của Mĩ. Khu vực tư nhân vẫn sợ rủi ro. Với lãi suất thị trường 0.25%, khu vực tư nhân nhanh chóng trả các khoản MBS (mortgage backed securities) khiến luồng tiền quay trở lại Fed. Fed đã quyết định đưa trở lại thị trường dòng tiền này bằng cách mua trái phiếu kho bạc.

Thất nghiệp của quốc gia này tiếp tục ở mức cao 9,5% và dự kiến giảm chậm trong vòng 1-2 năm tới.

Lạm phát ước tính của Mĩ trong năm nay là 1%. Nhiều người lo ngại giảm phát sẽ xảy ra. Tuy nhiên quan điểm của Fed là lạm phát khó có thể thấp hơn. Thông điệp gần đây của Bernanke là sẽ chỉ thực hiện bơm thêm tiền vào nền kinh tế Mĩ với hai điều kiện: (i) nếu lạm phát xuống thấp hơn nữa (nguy cơ giảm phát) và (ii) GDP năm nay tăng thấp hơn 2,5% đồng thời thất nghiệp không giảm.

Tóm lại, lo ngại chính của giới đầu tư thế giới bây giờ là kinh tế Mĩ sẽ ở trong tình trạng tăng trưởng thấp đồng thời thất nghiệp cao trong một thời gian dài nữa. Nguy cơ rơi vào cuộc khủng hoảng kép là nhỏ.

Kinh tế châu Âu có vẻ sáng sủa hơn. Kinh tế Anh tăng trưởng 1,2% chỉ trong quý 2 (so với quý 1), cao nhất trong vòng gần chục năm qua. Doanh số bán nhà và ngành xây dựng tăng trưởng mạnh. Chi tiêu của hộ gia đình lẫn chính phủ đều tăng. Chính phủ Anh cho rằng tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Tuy nhiên giới đầu tư tài chính lo ngại về kế hoạch thắt chặt chi tiêu và tăng VAT vào đầu năm tới của chính phủ Anh.

Kinh tế Đức thậm chí còn tăng tới 2,2% trong quý 2 (so với quý 1), mức cao kỉ lục trong vòng 20 năm qua, nhờ xuất khẩu tăng mạnh và chi tiêu hộ gia đình và chính phủ đều tăng. Tuy nhiên mức tăng này được đánh giá là có tính mùa vụ nhờ ngành xây dựng tăng mạnh sau mùa đông lạnh giá và nhờ xuất khẩu tăng đột biến (tín hiệu tốt đối với sự hồi phục của kinh tế thế giới do Đức là nước xuất khẩu lớn thứ hai trên thế giới). Các quý tới kinh tế Đức sẽ trở lại mức tăng bình thường.

Kinh tế Pháp tăng 0,6% trong quý 2. Các nền kinh tế gặp vấn đề nợ chính phủ như Tây Ban Nha và Hi Lạp và tăng trưởng thấp hoặc âm, tuy nhiên các kế hoạch thắt lưng buộc bụng ở các quốc gia nay đang được đánh giá tốt. Khu vực sử dụng đồng euro tăng trưởng 1% trong quý 2.

Kinh tế Nhật quý 2 chỉ tăng 0.1%, một con số quá thấp so với kì vọng. Nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu này đang gặp khó khăn khi để đồng yen lên giá quá mạnh trong thời gian qua. Tiêu dùng tư nhân không tăng. Gần đây, ngân hàng trung ương nước này đã công bố một kế hoạch bơm 3 ngàn tỉ yen (35 tỉ USD) với lãi suất thấp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là khu vực nội địa.

Nhìn chung kinh tế thế giới vẫn đang trong quá trình phục hồi chậm, đặc biệt là ở Mĩ. Tuy nhiên các rủi ro, như khủng hoảng nợ ở châu Âu và bong bóng bất động sản ở TQ, đã thấp hơn rất nhiều so với trước đây.

Oh dear GSO!

Vẫn biết các con số thống kê của Việt Nam thiếu tin cậy nhưng chắc hẳn không ít nhà kinh tế sẽ cảm thấy sốc và ái ngại với hệ thống đo lường của Việt Nam khi biết được tin này. Theo ông Bùi Hà, xưa nay TCTK vẫn dùng CPI bình quân để tính tăng trưởng GDP. Tức là ban đầu TCTK sẽ tính giá trị GDP theo giá hiện hành (current prices), rồi bằng cách chia con số này cho CPI (deflate) để có được GDP theo giá so sánh (constant prices). Cuối cùng là tính tốc độ tăng của GDP theo giá so sánh để có được con số tăng trưởng.

Đây là một cách làm không giống ai trên thế giới và sai nghiêm trọng. Lưu ý rằng CPI chỉ phản ánh giá cả của giỏ hàng tiêu dùng đại diện của hộ gia đình. Nó bao gồm cả giá hàng nhập khẩu và nội địa. Trong khi tổng sản phẩm quốc nội, GDP (Gross Demestic Product), như cái tên vốn có của nó, chỉ tính giá trị của các sản phẩm sản xuất ở Việt Nam.

Như vậy, GDP của Việt Nam có thể cao hơn so với thực tế nếu giá hàng nhập khẩu từ thế giới giảm/tăng chậm hơn so với hàng sản xuất trong nước và ngược lại.

Thực tế những năm qua CPI ở Việt Nam luôn tăng cao hơn các đối tác thương mại. Do vậy, rất có thể con số GDP của Việt nam đã được thổi phồng lên so với thực tế.

Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2010

Quy tắc 70

Nếu bạn từng học qua các môn kinh tế và tài chính thì chắc hẳn bạn đã một lần nghe đến quy tắc này. Thật ra nó chỉ là một phép ước tính xấp xỉ giản đơn. Giả sử chúng ta có biến X hàng năm tăng với tốc độ x%, thì sau log(2)/x% = 70/x năm biến X sẽ có quy mô gấp đôi.

Áp dụng phép tính tắt này, nếu GDP của Việt Nam năm 2010 đạt 100 tỉ USD, và cứ lạc quan (tếu) tin rằng tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của chúng ta là 7%/năm thì đến năm

2020: GDP của Việt Nam sẽ là 200 tỉ USD
2030: GDP của Việt Nam sẽ là 400 tỉ USD
2040: GDP của Việt Nam sẽ là 800 tỉ USD
2050: GDP của Việt Nam sẽ là 1600 tỉ USD

Về GDP bình quân đầu người, hiện nay GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 1000USD/người. Cứ với tinh thần lạc quan trên thì tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm sẽ là 5,8% (=tốc độ tăng GDP (7%) – tốc độ tăng dân số (1,2%)), và cũng phải mất tới 70/5,8 = 12 năm thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam mới tăng gấp đôi. Như vậy, đến năm

2022: GDP/người của Việt Nam sẽ là 2000 USD
2034: GDP/người của Việt Nam sẽ là 4000 USD
2046: GDP/người của Việt Nam sẽ là 8000 USD

Những con số này có vẻ khác xa với ước tính của phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng (GDP là 2800 tỉ USD và GDP/người là 20.000 USD).

Sai số gì lớn thế!

Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2010

Họp Quốc Hội (2)

Bác Trần Tiến Cảnh càng nói càng thấy đáng thương. Bác này có khi đi tàu chợ ở nước ngoài thấy nhanh quá tưởng là tàu cao tốc nên mới đề xuất xây dựng đường sắt cao tốc cho trẻ em đi học và phụ nữ đi chợ, đi làm hị hị.

Quốc hội tiếp tục phiên chất vấn chính phủ. Phó thủ tướng NSH chịu trách nhiệm trả lời sáng nay đã tuyên bố “việc xây đường sắt cao tốc là việc không thể không làm”. Tiền không phải là vấn đề khi ông lạc quan (tếu) ước tính Việt Nam có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 6-7% cho tới tận năm 2050!

Ông Dương Trung Quốc ví von Việt Nam như một đứa trẻ, còn nguồn vốn ODA như bầu sữa của cô hàng xóm. Đứa trẻ được mang đi cho bú nhờ khá lâu rồi. Để đảm bảo tính độc lập về kinh tế, chính trị, và thể diện quốc gia, chính phủ cần có kế hoạch cai sữa cho đứa trẻ.

Câu trả lời lòng vòng của NSH có vẻ như chưa thỏa mãn sự hưng phấn đang lên của các đại biểu. Thực ra, đáp án rất đơn giản: Việt Nam đã là một chàng trai trưởng thành vạm vỡ, còn bầu sữa của các cô hàng xóm thì quá đẹp.