Cuối cùng nghị quyết của chính phủ về các nhóm giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô cũng đã được đưa ra với sự kết hợp đồng bộ giữa cả chính sách tài khóa lẫn tiền tệ.
Những biện pháp như tạm hoãn, rà soát và đánh giá lại hiệu quả các hoạt động đầu tư công, rõ ràng chỉ mang tính tạm thời. Hơn nữa, kết quả đánh giá sẽ phụ thuộc nhiều vào ý kiến chủ quan của những người thực hiện mà chưa tạo ra được một cơ chế cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tự bươn chải trong một cơ chế thị trường bình đẳng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Theo số liệu thống kê những năm gần đây về tổng nguồn vốn đầu tư công, ngoài nguồn vốn từ phân bổ ngân sách nhà nước và vốn vay (có thể kiểm soát ngay được) thì vốn đầu tư của các DNNN, có nguồn gốc từ lợi nhuận sau thuế và tài sản nhà nước cũng chiếm tỉ trọng lớn, từ 24-30% tổng nguồn vốn đầu tư. Về nguyên tắc, lợi nhuận từ các DNNN đáng lẽ phải đóng vai trò là một khoản thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên thực tế trong những năm vừa qua, hầu hết các DNNN, gồm cả những doanh nghiệp đang có những hoạt động nằm ngoài mảng hoạt động kinh doanh chính, lại được giữ lại lợi nhuận để thực hiện đầu tư mới. Việc giao lại lợi nhuận để đầu tư này một mặt giúp cho các DNNN có được lợi thế về nguồn vốn giá rẻ so với khu vực tư nhân, đồng thời nó dễ gây thất thoát và cũng kém tạo ra những động lực để các doanh nghiệp này làm ăn có hiệu quả.
Quá trình này cũng đang khiến cho quy mô của khu vực kinh tế nhà nước, vốn được cho là kém hiệu quả, khó giảm về quy mô. Song song với việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa, việc giao lại lợi nhuận để đầu tư cho các DNNN, đặc biệt là đối với những dự án mang tính thương mại, nên được chấm dứt hoặc ít nhất, phải được tính chi phí như những nguồn vốn vay thông thường trên thị trường. Các DNNN cần vốn đầu tư cho những dự án mới, nếu chứng minh được tính hiệu quả, nên để họ tự huy động trên thị trường.
Cải cách đầu tư công cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ của chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với những công cụ lãi suất phải tạo ra được một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Việc phát hành trái phiếu chính phủ để thực hiện các dự án đầu tư, dù với mục đích gì đi chăng nữa, cũng không nên có sự “hỗ trợ” trực tiếp hay gián tiếp từ NHNN. Việc các ngân hàng thương mại lớn liên tục báo cáo lãi hàng ngàn tỉ đồng, trong khi các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ gặp khó khăn về nguồn vốn trong năm qua đang đặt ra những câu hỏi lớn về sự bình đẳng giữa ngân hàng lớn với ngân hàng nhỏ, giữa các doanh nghiệp được sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ lãi suất thấp với các doanh nghiệp phải tiếp cận nguồn vốn chi phí cao trên thị trường.
Một cơ chế bình đẳng sẽ giúp các doanh nghiệp tự cải thiện nâng cao hiệu quả hoạt động để tồn tại. Sự kết hợp giữa những giải pháp tạm thời với những định hướng lâu dài và cơ chế giám sát thực hiện chặt chẽ có lẽ sẽ phải là bước khởi đầu cho công cuộc cải cách đầu tư công ở Việt Nam.
Link trên SGTT
Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011
Thứ Tư, 23 tháng 2, 2011
Lãi suất OMO
Thị trường tài chính Việt Nam hôm nay phản ứng tích cực mặc dù cuối giờ sáng hôm qua NHNN thực hiện việc nâng lãi suất repo trái phiếu chính phủ (TPCP) trên thị trường mở (OMO) từ 11 lên 12%. Thị trường có vẻ như đang bị “đánh lạc hướng” khi vẫn nhìn vào lãi suất cơ bản. Hầu hết các trang báo kinh tế, gồm cả vneconomy, cũng không thấy có bình luận hay đưa tin về sự thay đổi chính sách quan trọng này.
Nếu đọc bài trả lời phỏng vấn này của thống đốc Giàu chúng ta có thể thấy kể từ nay, NHNN sẽ sử dụng lãi suất OMO là công cụ chủ chốt để điều tiết thị trường. Việc sử dụng lãi suất OMO, thay vì lãi suất cơ bản mang nặng tính hành chính bấy lâu nay, là một quyết định đúng đắn. Thông thường, các NHTM nắm giữ một lượng TPCP nhất định để khi cần thiết có thể thế bán có kì hạn (repo) cho NHNN nhằm đáp ứng thiếu hụt thanh khoản trong ngắn hạn. Các NHTM không có TPCP để tham gia trên OMO có thể đi vay trên thị trường liên ngân hàng. Thông qua lãi suất OMO, NHNN có thể đánh trực tiếp vào hành vi đi vay và tự cân đối nguồn vốn của các NHTM, và từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, và lãi suất cho vay/huy động trên thị trường.
Ông Giàu nói đúng “... lãi suất tái cấp vốn phải ở mức cao vì nếu ngân hàng kinh doanh bị mất khả năng thanh toán, vay ở ngoài không được phải chạy lên đây, đã lên đây thì phải cao chứ, thậm chí còn bị phạt nữa…” Do vậy, ông nên nâng lãi suất tái cấp vốn (hiện ở mức 11%) lên cao hơn nữa để nhất quán với việc nâng lãi suất OMO. Về nguyên tắc, lãi suất tái cấp vốn phải lớn hơn lãi suất OMO vì hợp đồng tín dụng của các NHTM rủi ro hơn so với TPCP. Hơn nữa, hành vi đi vay qua cửa sổ tái cấp vốn/tái chiết khấu là hành vi không được khuyến khích vì nó phản ánh nguy cơ mất khả năng thanh toán của NHTM.
Cùng với việc nâng lãi suất tái cấp vốn lên cao hơn lãi suất OMO, lãi suất tái chiết khấu cũng phải được nâng lên theo (ít nhất là bằng lãi suất OMO) để hạn chế sự bất bình đẳng có thể có. Việc nâng lãi suất tái chiết khấu cũng sẽ hạn chế dòng vốn của các NHTM lớn chạy loanh quanh trên các thị trường trái phiếu & tiền tệ nhằm hưởng chênh lệch lãi suất, và do đó sẽ “chịu” tìm đến các doanh nghiệp hơn.
Sau đúng 2 năm kể từ khi bắt đầu dùng gói viagra kích thích tăng trưởng, kinh tế Việt Nam giờ lại đang loay hoay với bài toán giảm tổng cầu!
Nếu quả thực thống đốc quyết tâm thực hiện những biện pháp (từ hạ tăng trưởng cung tiền/tín dụng, cắt giảm chi tiêu công, đến cân đối tiết kiệm – đầu tư trong dài hạn,…) như ông nói hôm nay thì việc ông sẽ rời NHNN trong nhiệm kì sắp tới, như tin đồn, sẽ là rất đáng tiếc đối với kinh tế Việt Nam :-).
Nếu đọc bài trả lời phỏng vấn này của thống đốc Giàu chúng ta có thể thấy kể từ nay, NHNN sẽ sử dụng lãi suất OMO là công cụ chủ chốt để điều tiết thị trường. Việc sử dụng lãi suất OMO, thay vì lãi suất cơ bản mang nặng tính hành chính bấy lâu nay, là một quyết định đúng đắn. Thông thường, các NHTM nắm giữ một lượng TPCP nhất định để khi cần thiết có thể thế bán có kì hạn (repo) cho NHNN nhằm đáp ứng thiếu hụt thanh khoản trong ngắn hạn. Các NHTM không có TPCP để tham gia trên OMO có thể đi vay trên thị trường liên ngân hàng. Thông qua lãi suất OMO, NHNN có thể đánh trực tiếp vào hành vi đi vay và tự cân đối nguồn vốn của các NHTM, và từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, và lãi suất cho vay/huy động trên thị trường.
Ông Giàu nói đúng “... lãi suất tái cấp vốn phải ở mức cao vì nếu ngân hàng kinh doanh bị mất khả năng thanh toán, vay ở ngoài không được phải chạy lên đây, đã lên đây thì phải cao chứ, thậm chí còn bị phạt nữa…” Do vậy, ông nên nâng lãi suất tái cấp vốn (hiện ở mức 11%) lên cao hơn nữa để nhất quán với việc nâng lãi suất OMO. Về nguyên tắc, lãi suất tái cấp vốn phải lớn hơn lãi suất OMO vì hợp đồng tín dụng của các NHTM rủi ro hơn so với TPCP. Hơn nữa, hành vi đi vay qua cửa sổ tái cấp vốn/tái chiết khấu là hành vi không được khuyến khích vì nó phản ánh nguy cơ mất khả năng thanh toán của NHTM.
Cùng với việc nâng lãi suất tái cấp vốn lên cao hơn lãi suất OMO, lãi suất tái chiết khấu cũng phải được nâng lên theo (ít nhất là bằng lãi suất OMO) để hạn chế sự bất bình đẳng có thể có. Việc nâng lãi suất tái chiết khấu cũng sẽ hạn chế dòng vốn của các NHTM lớn chạy loanh quanh trên các thị trường trái phiếu & tiền tệ nhằm hưởng chênh lệch lãi suất, và do đó sẽ “chịu” tìm đến các doanh nghiệp hơn.
Sau đúng 2 năm kể từ khi bắt đầu dùng gói viagra kích thích tăng trưởng, kinh tế Việt Nam giờ lại đang loay hoay với bài toán giảm tổng cầu!
Nếu quả thực thống đốc quyết tâm thực hiện những biện pháp (từ hạ tăng trưởng cung tiền/tín dụng, cắt giảm chi tiêu công, đến cân đối tiết kiệm – đầu tư trong dài hạn,…) như ông nói hôm nay thì việc ông sẽ rời NHNN trong nhiệm kì sắp tới, như tin đồn, sẽ là rất đáng tiếc đối với kinh tế Việt Nam :-).
Thứ Năm, 17 tháng 2, 2011
Sân chơi lãi suất bất bình đẳng?
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa công bố tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 9% lên 11,0%/năm. Trong khi đó, lãi suất tái chiết khấu vẫn được giữ nguyên ở mức 7%.
Đây là một trong những hành động nhằm hạn chế tăng trưởng tín dụng và kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, có vẻ như quyết định này đang tạo thêm ra một sân chơi bất bình đẳng về lãi suất giữa các ngân hàng thương mại quốc doanh với ngân hàng thương mại cổ phần, và giữa khu vực tư nhân với khu vực nhà nước.
Thông thường, trong trường hợp thiếu hụt thanh khoản tạm thời, các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể đi vay từ NHNN thông qua việc thế chấp trái phiếu chính phủ hoặc thế chấp các hợp đồng tín dụng. Khi thế chấp bằng trái phiếu, NHTM phải trả mức lãi suất tái chiết khấu (7%). Ngược lại, nếu thế chấp bằng các hợp đồng tín dụng thì họ phải trả mức lãi suất tái cấp vốn (11%).
Phần lớn trái phiếu chính phủ hiện nay nằm trong tay các NHTM quốc doanh và một số NHTM cổ phần lớn. Như vậy, việc tăng lãi suất tái cấp vốn, trong khi giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu, chủ yếu đánh vào các NHTM cổ phần nhỏ. Trong khi các NHTM quốc doanh với thị phần lớn sẽ hầu như không bị ảnh hưởng.
Hơn nữa, ẩn sau quyết định này chính là việc “hỗ trợ” cho việc phát hành trái phiếu chính phủ nhằm phục vụ chi tiêu của khu vực nhà nước. Kể từ đầu năm đến nay, khoảng gần 7 ngàn tỉ đồng (trong kế hoạch 45 ngàn tỉ đồng của cả năm 2011) trái phiếu chính phủ đã được phát hành thành công với lợi suất chỉ xấp xỉ 11%/năm, thấp hơn rất nhiều so với lãi suất thị trường. Điều này tưởng chừng như vô lý, tuy nhiên thực chất các NHTM có thể đem thế chấp lượng trái phiếu mà họ nắm giữ để vay tiền từ NHNN với mức lãi suất chiết khấu (7%), sau đó cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao nhằm thu lợi lớn. Như vậy, quyết định nâng lãi suất tái cấp vốn, trong khi giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu, sẽ tiếp tục duy trì cầu về trái phiếu chính phủ. Và thực chất, nó chỉ hạn chế tín dụng đối với khu vực tư nhân chứ không hạn chế tín dụng đối với chính phủ, hay đằng sau đó là các tập đoàn kinh tế lớn.
Đâu đó chúng ta vẫn thấy các thông tin về việc chính phủ giao cho các tập đoàn kinh tế hàng ngàn tỉ đồng để đầu tư trong năm 2011.
Nâng lãi suất cần phải đi kèm với việc hạn chế tăng trưởng cung tiền ra nền kinh tế mới mong kiểm soát lạm phát và nâng cao giá trị của tiền đồng một cách hiệu quả. Quan trọng hơn, chính sách đưa ra cần phải tạo sân chơi bình đẳng giữa các khu vực.
Chúng ta vẫn đang bàn về việc tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc tái cấu trúc nền kinh tế có lẽ phải bắt đầu từ việc tái cấu trúc hệ thống chính sách vĩ mô và sâu xa hơn nữa, đó là “tái cấu trúc” những người làm ra các chính sách đó.
Đây là một trong những hành động nhằm hạn chế tăng trưởng tín dụng và kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, có vẻ như quyết định này đang tạo thêm ra một sân chơi bất bình đẳng về lãi suất giữa các ngân hàng thương mại quốc doanh với ngân hàng thương mại cổ phần, và giữa khu vực tư nhân với khu vực nhà nước.
Thông thường, trong trường hợp thiếu hụt thanh khoản tạm thời, các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể đi vay từ NHNN thông qua việc thế chấp trái phiếu chính phủ hoặc thế chấp các hợp đồng tín dụng. Khi thế chấp bằng trái phiếu, NHTM phải trả mức lãi suất tái chiết khấu (7%). Ngược lại, nếu thế chấp bằng các hợp đồng tín dụng thì họ phải trả mức lãi suất tái cấp vốn (11%).
Phần lớn trái phiếu chính phủ hiện nay nằm trong tay các NHTM quốc doanh và một số NHTM cổ phần lớn. Như vậy, việc tăng lãi suất tái cấp vốn, trong khi giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu, chủ yếu đánh vào các NHTM cổ phần nhỏ. Trong khi các NHTM quốc doanh với thị phần lớn sẽ hầu như không bị ảnh hưởng.
Hơn nữa, ẩn sau quyết định này chính là việc “hỗ trợ” cho việc phát hành trái phiếu chính phủ nhằm phục vụ chi tiêu của khu vực nhà nước. Kể từ đầu năm đến nay, khoảng gần 7 ngàn tỉ đồng (trong kế hoạch 45 ngàn tỉ đồng của cả năm 2011) trái phiếu chính phủ đã được phát hành thành công với lợi suất chỉ xấp xỉ 11%/năm, thấp hơn rất nhiều so với lãi suất thị trường. Điều này tưởng chừng như vô lý, tuy nhiên thực chất các NHTM có thể đem thế chấp lượng trái phiếu mà họ nắm giữ để vay tiền từ NHNN với mức lãi suất chiết khấu (7%), sau đó cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao nhằm thu lợi lớn. Như vậy, quyết định nâng lãi suất tái cấp vốn, trong khi giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu, sẽ tiếp tục duy trì cầu về trái phiếu chính phủ. Và thực chất, nó chỉ hạn chế tín dụng đối với khu vực tư nhân chứ không hạn chế tín dụng đối với chính phủ, hay đằng sau đó là các tập đoàn kinh tế lớn.
Đâu đó chúng ta vẫn thấy các thông tin về việc chính phủ giao cho các tập đoàn kinh tế hàng ngàn tỉ đồng để đầu tư trong năm 2011.
Nâng lãi suất cần phải đi kèm với việc hạn chế tăng trưởng cung tiền ra nền kinh tế mới mong kiểm soát lạm phát và nâng cao giá trị của tiền đồng một cách hiệu quả. Quan trọng hơn, chính sách đưa ra cần phải tạo sân chơi bình đẳng giữa các khu vực.
Chúng ta vẫn đang bàn về việc tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc tái cấu trúc nền kinh tế có lẽ phải bắt đầu từ việc tái cấu trúc hệ thống chính sách vĩ mô và sâu xa hơn nữa, đó là “tái cấu trúc” những người làm ra các chính sách đó.
Thứ Sáu, 11 tháng 2, 2011
Điều chỉnh tỉ giá
Cuối cùng thì bác G cũng ra tay lần cuối trước khi nghỉ. Lần này do nhịn hơi lâu nên mức độ điều chỉnh lên tới 9,3%, đồng thời thu hẹp biên độ dao động xuống còn +-1%. Hành động chính sách này có thể có một số tác động sau:
Giá USD trên thị trường tự do sẽ tạm thời bị ảnh hưởng do tâm lý. Tuy nhiên, với nguồn cung USD cao từ giải ngân FDI, kiều hối, vốn vay,... trong thời gian qua thì tỉ giá trên thị trường tự do sẽ nhanh chóng ổn định và dao động quanh mức 21,000-21,500 VND/USD.
Tác động đối với lạm phát có thể không đáng ngại lắm vì bấy lâu nay hầu hết doanh nghiệp nhập khẩu vẫn phải mua USD tính theo tỉ giá của thị trường tự do. Tất nhiên việc phá sẽ có những ảnh hưởng nhất định, đặc biệt là đối với giá xăng dầu nhập khẩu.
Kì vọng về sự phá giá tiếp theo chắc chắn phải còn rất lâu nữa mới xuất hiện. Vốn nước ngoài (cả FDI, FII, vốn vay, và kiều hối) nhiều khả năng sẽ đổ vào VN nhờ rủi ro tỉ giá giảm và nhờ lãi suất VND hiện rất cao. Dòng vốn ngoại sẽ vào mạnh nếu như Việt Nam từng bước giải quyết được vấn đề lạm phát và hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước.
Thâm hụt thương mại sẽ giảm cùng với dòng vốn ngoại vào sẽ giúp duy trì tỉ giá ổn định trong ít nhất 6 tháng đầu năm.
Giá USD trên thị trường tự do sẽ tạm thời bị ảnh hưởng do tâm lý. Tuy nhiên, với nguồn cung USD cao từ giải ngân FDI, kiều hối, vốn vay,... trong thời gian qua thì tỉ giá trên thị trường tự do sẽ nhanh chóng ổn định và dao động quanh mức 21,000-21,500 VND/USD.
Tác động đối với lạm phát có thể không đáng ngại lắm vì bấy lâu nay hầu hết doanh nghiệp nhập khẩu vẫn phải mua USD tính theo tỉ giá của thị trường tự do. Tất nhiên việc phá sẽ có những ảnh hưởng nhất định, đặc biệt là đối với giá xăng dầu nhập khẩu.
Kì vọng về sự phá giá tiếp theo chắc chắn phải còn rất lâu nữa mới xuất hiện. Vốn nước ngoài (cả FDI, FII, vốn vay, và kiều hối) nhiều khả năng sẽ đổ vào VN nhờ rủi ro tỉ giá giảm và nhờ lãi suất VND hiện rất cao. Dòng vốn ngoại sẽ vào mạnh nếu như Việt Nam từng bước giải quyết được vấn đề lạm phát và hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước.
Thâm hụt thương mại sẽ giảm cùng với dòng vốn ngoại vào sẽ giúp duy trì tỉ giá ổn định trong ít nhất 6 tháng đầu năm.
Thứ Ba, 25 tháng 1, 2011
Cơ hội cho điều chỉnh tỉ giá
Trong suốt gần 3 tháng qua mức chênh lệch giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá trên thị trường tự do dao động trong khoảng từ 7-10%. Sự chênh lệch lớn này đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như ngân hàng trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Thị trường, bao gồm cả các ngân hàng thương mại, bằng cách này hay cách khác gần như đã chấp nhận giao dịch ở mức tỉ giá của thị trường tự do. Việc điều chỉnh tỉ giá chính thức có thể gây ra những lo ngại về sức ép lạm phát gia tăng, tuy nhiên những thông điệp từ chính phủ cho thấy việc điều chỉnh tỉ giá sớm muộn cũng sẽ được thực hiện, vấn đề chỉ còn là việc lựa chọn thời điểm thích hợp.
Trước kì nghỉ Tết Nguyên Đán có lẽ là thời điểm thích hợp nhất. Sự dồi dào của lượng kiều hối, giải ngân vốn đầu tư gián tiếp, và đầu tư trực tiếp trong những tháng gần đây cộng với lãi suất VND cao đang khiến cho tâm lý găm giữ ngoại tệ giảm đáng kể. Tỉ giá trên thị trường tự do đã giảm từ trên 21500 VND/USD trong những ngày cuối tháng 11/2010 xuống còn khoảng 21000 VND/USD trong thời gian gần đây. Việc điều chỉnh tỉ giá trong thời điểm thuận lợi về nguồn cung ngoại tệ sẽ giúp cho thị trường tự do không bị xáo trộn mạnh đồng thời giúp đưa tỉ giá trên hai thị trường tiến sát gần nhau hơn.
Việc điều chỉnh tỉ giá trong thời điểm thắt chặt tiền tệ hiện nay được kì vọng là sẽ khiến cho các doanh nghiệp và người dân có ngoại tệ chịu bán lại cho các ngân hàng thương mại hơn. Đây có lẽ là thời điểm tốt để Ngân hàng Nhà nước mua lại nhằm cải thiện lượng dự trữ ngoại tệ vốn được cho là đã xuống rất thấp trong thời gian qua. Cuối cùng, việc điều chỉnh tỉ giá trước kì nghỉ Tết dài sẽ giúp cho thị trường tránh được được cú sốc tức thời về tâm lý. Các quyết định sẽ cân nhắc kĩ lưỡng và thực hiện một cách khôn ngoan hơn.
Ngoại trừ vấn đề rủi ro tỉ giá, dòng vốn quốc tế thông thường sẽ đổ về những thị trường có lãi suất cao như Việt Nam hiện nay. Việc điều chỉnh tỉ giá, nếu được thực hiện, sẽ làm giảm bớt rủi ro tỉ giá đối với dòng vốn quốc tế. Đồng thời nó sẽ khiến cho dòng vốn quốc tế qua nhiều kênh khác nhau tìm đến thị trường Việt Nam nhiều hơn. Đây một mặt sẽ là cơ hội tốt cho Ngân hàng Nhà nước nâng cao dự trữ ngoại hối tuy nhiên cũng là thách thức đối với các nhà quản lý trong việc trung hòa lượng vốn ngoại này, tránh tình trạng tăng trưởng nóng cung tiền và lạm phát phi mã như những năm 2007-2008.
Hình: Diễn biến tỉ giá

Link liên quan
Techcombank trả giá.
Trước kì nghỉ Tết Nguyên Đán có lẽ là thời điểm thích hợp nhất. Sự dồi dào của lượng kiều hối, giải ngân vốn đầu tư gián tiếp, và đầu tư trực tiếp trong những tháng gần đây cộng với lãi suất VND cao đang khiến cho tâm lý găm giữ ngoại tệ giảm đáng kể. Tỉ giá trên thị trường tự do đã giảm từ trên 21500 VND/USD trong những ngày cuối tháng 11/2010 xuống còn khoảng 21000 VND/USD trong thời gian gần đây. Việc điều chỉnh tỉ giá trong thời điểm thuận lợi về nguồn cung ngoại tệ sẽ giúp cho thị trường tự do không bị xáo trộn mạnh đồng thời giúp đưa tỉ giá trên hai thị trường tiến sát gần nhau hơn.
Việc điều chỉnh tỉ giá trong thời điểm thắt chặt tiền tệ hiện nay được kì vọng là sẽ khiến cho các doanh nghiệp và người dân có ngoại tệ chịu bán lại cho các ngân hàng thương mại hơn. Đây có lẽ là thời điểm tốt để Ngân hàng Nhà nước mua lại nhằm cải thiện lượng dự trữ ngoại tệ vốn được cho là đã xuống rất thấp trong thời gian qua. Cuối cùng, việc điều chỉnh tỉ giá trước kì nghỉ Tết dài sẽ giúp cho thị trường tránh được được cú sốc tức thời về tâm lý. Các quyết định sẽ cân nhắc kĩ lưỡng và thực hiện một cách khôn ngoan hơn.
Ngoại trừ vấn đề rủi ro tỉ giá, dòng vốn quốc tế thông thường sẽ đổ về những thị trường có lãi suất cao như Việt Nam hiện nay. Việc điều chỉnh tỉ giá, nếu được thực hiện, sẽ làm giảm bớt rủi ro tỉ giá đối với dòng vốn quốc tế. Đồng thời nó sẽ khiến cho dòng vốn quốc tế qua nhiều kênh khác nhau tìm đến thị trường Việt Nam nhiều hơn. Đây một mặt sẽ là cơ hội tốt cho Ngân hàng Nhà nước nâng cao dự trữ ngoại hối tuy nhiên cũng là thách thức đối với các nhà quản lý trong việc trung hòa lượng vốn ngoại này, tránh tình trạng tăng trưởng nóng cung tiền và lạm phát phi mã như những năm 2007-2008.
Hình: Diễn biến tỉ giá

Link liên quan
Techcombank trả giá.
Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010
Lạm phát cơ bản
Dân Trí đưa tin: "Phó Thủ tướng cũng cho rằng, phương pháp tính tăng giá của các nước không tính giá dầu, giá lương thực và nếu ta thực hiện theo cách này, chỉ số giá tiêu dùng của cả năm chỉ tăng 7,5%, không phải tăng 11,75% như cách tính hiện nay."
Không thể mập mờ giữa lạm phát 7,5% hay 11,75% như ông SH nói được.
Để đo lường sự thay đổi của chi phí sinh hoạt chúng ta phải dùng thước đo lạm phát tổng thế (Headline Inflation), 11,75%. Thước đo này cho biết người dân trung bình phải bỏ thêm bao nhiêu tiền để mua được rổ hàng hóa như trước.
Thước đo lạm phát cơ bản (Core Inflation) - loại trừ giá dầu và giá lương thực - được ngân hàng trung ương các nước dùng tham khảo để đưa ra phản ứng chính sách thích hợp. Ở nhiều nước, giá các mặt hàng này cả lên và xuống thường xuyên nên việc đưa ra phản ứng chính sách chỉ dựa vào lạm phát tổng thể là không thích hợp.
Tuy nhiên không phải lúc nào biến động giá năng lượng và lương thực cũng là tạm thời (volatility) mà có thể là xu hướng dài hạn (trend). Thailand, Colombia trong thời gian gần đây, và đặc biệt là Việt Nam là những nước rơi vào trường hợp này. Giá cả lương thực và năng lượng chỉ có xu hướng ngày càng tăng chứ không giảm. Đóng góp của mỗi mặt hàng vào lạm phát của Việt Nam năm 2010 trong hình vẽ dưới đây cho thấy rõ điều đó.
Cũng lưu ý trong hình vẽ này là đóng góp của nhóm hàng giao thông - transport đang bị bóp béo bởi sự trợ giá của chính phủ. Giá dầu thế giới thời gian tới khó giảm trừ khi lại có khủng hoảng. Trước sau cũng phải bỏ trợ giá, nếu không có sự trợ giá từ nửa cuối năm 2010 thì nhóm hàng này còn đóng góp thêm vào CPI năm nay ít nhất 1% nữa.
Không thể mập mờ giữa lạm phát 7,5% hay 11,75% như ông SH nói được.
Để đo lường sự thay đổi của chi phí sinh hoạt chúng ta phải dùng thước đo lạm phát tổng thế (Headline Inflation), 11,75%. Thước đo này cho biết người dân trung bình phải bỏ thêm bao nhiêu tiền để mua được rổ hàng hóa như trước.
Thước đo lạm phát cơ bản (Core Inflation) - loại trừ giá dầu và giá lương thực - được ngân hàng trung ương các nước dùng tham khảo để đưa ra phản ứng chính sách thích hợp. Ở nhiều nước, giá các mặt hàng này cả lên và xuống thường xuyên nên việc đưa ra phản ứng chính sách chỉ dựa vào lạm phát tổng thể là không thích hợp.
Tuy nhiên không phải lúc nào biến động giá năng lượng và lương thực cũng là tạm thời (volatility) mà có thể là xu hướng dài hạn (trend). Thailand, Colombia trong thời gian gần đây, và đặc biệt là Việt Nam là những nước rơi vào trường hợp này. Giá cả lương thực và năng lượng chỉ có xu hướng ngày càng tăng chứ không giảm. Đóng góp của mỗi mặt hàng vào lạm phát của Việt Nam năm 2010 trong hình vẽ dưới đây cho thấy rõ điều đó.
Cũng lưu ý trong hình vẽ này là đóng góp của nhóm hàng giao thông - transport đang bị bóp béo bởi sự trợ giá của chính phủ. Giá dầu thế giới thời gian tới khó giảm trừ khi lại có khủng hoảng. Trước sau cũng phải bỏ trợ giá, nếu không có sự trợ giá từ nửa cuối năm 2010 thì nhóm hàng này còn đóng góp thêm vào CPI năm nay ít nhất 1% nữa.

Thứ Ba, 28 tháng 12, 2010
Lạm phát và các quy tắc chính sách tiền tệ
Năm 2010 kinh tế Việt Nam một lần nữa lại chứng kiến sự biến động mạnh của lạm phát và những bất ổn đi kèm. Tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vào cuối năm đã ở mức hai con số so với cùng kì năm trước, đồng thời nó đặt các hoạch định chính sách trước bài toán nan giải phải cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng với bình ổn lạm phát, lãi suất, và tỉ giá. Ngoại trừ năm 2009, khi lạm phát ở mức thấp phần lớn nhờ vào sự suy giảm của tổng cầu cộng với sự rớt giá nguyên nhiên liệu đầu vào do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, những năm gần đây lạm phát ở Việt Nam luôn ở mức hai con số và vượt xa mục tiêu đặt ra của chính phủ.
Việc lạm phát cao và vượt xa mục tiêu đề ra liên tiếp trong những năm gần đây cho thấy việc xác định mục tiêu và công tác điều hành chính sách tiền tệ trong việc đạt được mục tiêu đó còn có những bất cập nhất định. Việc thực thi chính sách tiền tệ có vẻ như còn thiếu một cơ sở lý luận vững chắc do vậy thường dẫn đến những phản ứng thụ động, không hiệu quả, hoặc gây sốc cho nền kinh tế. Trong bài viết này, trước tiên chúng tôi chúng tôi cố gắng phân rã CPI thành nhiều thành phần khác nhau. Việc phân rã này góp phần làm rõ xu hướng biến động từng thành phần và từ đó đưa ra những gợi ý phản ứng chính sách thích hợp và chủ động hơn. Tiếp theo, các quy tắc chính sách tiền tệ cũng được thảo luận trong việc theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát, tránh những phản ứng không cần thiết gây sốc thanh khoản cho nền kinh tế.
Xem chi tiết ở đây
Từ khóa: phân rã lạm phát, mục tiêu lạm phát, quy tắc chính sách tiền tệ
Việc lạm phát cao và vượt xa mục tiêu đề ra liên tiếp trong những năm gần đây cho thấy việc xác định mục tiêu và công tác điều hành chính sách tiền tệ trong việc đạt được mục tiêu đó còn có những bất cập nhất định. Việc thực thi chính sách tiền tệ có vẻ như còn thiếu một cơ sở lý luận vững chắc do vậy thường dẫn đến những phản ứng thụ động, không hiệu quả, hoặc gây sốc cho nền kinh tế. Trong bài viết này, trước tiên chúng tôi chúng tôi cố gắng phân rã CPI thành nhiều thành phần khác nhau. Việc phân rã này góp phần làm rõ xu hướng biến động từng thành phần và từ đó đưa ra những gợi ý phản ứng chính sách thích hợp và chủ động hơn. Tiếp theo, các quy tắc chính sách tiền tệ cũng được thảo luận trong việc theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát, tránh những phản ứng không cần thiết gây sốc thanh khoản cho nền kinh tế.
Xem chi tiết ở đây
Từ khóa: phân rã lạm phát, mục tiêu lạm phát, quy tắc chính sách tiền tệ
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)